40 mùa hoa nở
… Vật vã, đau thương vì mất mát chiến tranh, những năm đầu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh còn đối mặt với muôn vàn khó khăn khi nguyên liệu dự trữ cạn kiệt, kinh tế sa sút, sản xuất tụt dốc vì thiên tai và thêm chiến tranh biên giới phía Tây Nam… Lần đầu tiên trong lịch sử, đến 90% người dân Sài Gòn phải ăn độn bo bo, khoai sắn. Hình ảnh từng đoàn người xếp hàng rồng rắn cả ngày để chờ mua lương thực, thức trắng đêm hứng nước sinh hoạt đã trở thành nỗi day dứt không yên của lãnh đạo thành phố.
Lúc này, Thành ủy TP. Hồ Chí Minh một mặt chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, mặt khác bám sát thực tiễn, tích cực tháo gỡ khó khăn, khôi phục sản xuất, phát triển kinh doanh… Sau 10 năm đầu giải phóng, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh đã nhanh chóng vượt qua khủng hoảng, tiến bước vững chắc vào sự nghiệp đổi mới toàn diện, mạnh mẽ trong bối cảnh mới của đất nước… 40 năm qua, TP. Hồ Chí Minh cùng cả nước xây dựng và phát triển, đổi mới và hội nhập đã trải qua bao thăng trầm khó khăn, thách thức.
Đến hôm nay, TP. Hồ Chí Minh đã hoàn thành sứ mệnh “đi trước” và “về đích trước” khi đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Khẳng định vai trò một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của cả nước và là đầu mối giao lưu, hội nhập quốc tế, có vị trí chính trị, kinh tế, xã hội quan trọng của cả nước…
TS. Phan Xuân Biên – Viện Nghiên cứu Phát triển TP. Hồ Chí Minh nhận định như vậy về chặng đường 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập của TP. Hồ Chí Minh.
Thành phố đi trước…
Ông Nguyễn Văn Đua – nguyên Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh nhớ lại, sau ngày toàn thắng 30/4/1975, Thành ủy lãnh đạo nhân dân thành phố bắt tay ngay vào hàn gắn vết thương chiến tranh và khắc phục hậu quả nặng nề mà nó để lại, tập trung lo cho người dân có cái ăn. Tất cả bắt đầu từ việc chuyển một thành phố tiêu thụ, phục vụ cho guồng máy chiến tranh đi vào sản xuất, tạo việc làm, động viên nhân dân, nhất là thanh niên hăng hái lên rừng, xuống biển lao động sản xuất.
Trong điều kiện bị bao vây, cấm vận khắc nghiệt từ bên ngoài và cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong nước cuối thập niên 70, Ban Thường vụ Thành ủy một mặt hết lòng chạy gạo và thực phẩm cho dân, tìm nguyên liệu cho sản xuất, mặt khác, đề ra chủ trương đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, tháo gỡ khó khăn do cạn kiệt nguyên liệu, vật tư khiến sản xuất bị đình đốn. Việc này đã tác động “cởi trói”, bung ra sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng thay thế, thu hút vốn đầu tư vào sản xuất… Thành phố cũng đề ra ba phần kế hoạch, khoán lương theo sản phẩm, phá thế bao vây cấm vận, xuất để nhập vật tư nguyên liệu. Đây là cơ sở thực tiễn, tích cực, góp phần hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Đến lúc đất nước đã phá được thế bị bao vây cấm vận và trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, Đảng bộ thành phố xác định, chủ động hội nhập và tăng tốc phát triển phải gắn liền với giải pháp nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là doanh nhân, doanh nghiệp về nắm bắt thời cơ, vượt thách thức, nâng cao sức cạnh tranh, chủ động tìm kiếm thị trường, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững. Từ tháng 10/1992, thành phố đã tiến hành thí điểm cổ phần hóa 4 doanh nghiệp Nhà nước do thành phố quản lý và 3 doanh nghiệp Nhà nước do Trung ương quản lý. Thành phố cũng là nơi hình thành sớm nhất (2/1992) khu chế xuất (Tân Thuận, Linh Trung) thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý để phát triển công nghiệp, dịch vụ, tạo việc làm…
Từ Đại hội VIII tháng 12/2005, Đảng bộ thành phố xác định quản lý và phát triển đô thị là nhiệm vụ thứ hai ngay sau kinh tế, xác định đặc trưng phát triển kinh tế thành phố là kinh tế đô thị, nông nghiệp đô thị và đề xuất thí điểm cơ chế tài chính để thành phố chủ động thu hút nguồn lực xã hội trong nước, đầu tư nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế.
Cũng từ đây, khái niệm sử dụng Ngân sách Nhà nước làm “vốn mồi” để thu hút vốn đầu tư xã hội (vốn tín dụng, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn trong dân cư…) đã trở thành phổ biến ở thành phố. Kết quả là trong giai đoạn 2006 – 2010 một đồng vốn ngân sách thu hút 8,5 đồng vốn xã hội và giai đoạn 2011 – 2014 một đồng vốn ngân sách huy động 12,5 đồng vốn xã hội. Nhìn lại việc phát triển lực lượng sản xuất của thành phố 40 năm qua, cái gốc là từ các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và các tầng lớp nhân dân.
Đây là giai đoạn rất nhiều sáng kiến của nhân dân, doanh nghiệp, các đoàn thể xã hội của thành phố được thực hiện bền bỉ. Nhiều chương trình điển hình như xóa đói giảm nghèo, phát triển giao thông nông thôn… đã đạt thành tựu to lớn, nổi bật. Cụ thể là chương trình xóa đói giảm nghèo.
Thời điểm năm 1991, chưa tới 35% hộ nông dân ngoại thành thuộc diện khá giả, có tích lũy. 24% hộ tạm đủ ăn, 40% là hộ nghèo đói, với 9.000 hộ phải cứu trợ thường xuyên, 2.000 hộ tay trắng do thiếu đất, không có phương tiện sản xuất. Toàn thành phố có trên 120.000 hộ nghèo (thu nhập dưới 3 triệu đồng/người/năm ở ngoại thành và 2,5 triệu đồng/người/năm nội thành. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm đến 17% tổng số hộ dân.
Với chủ trương phấn đấu xoá nạn đói, giảm hộ nghèo, Ban Thường vụ Thành ủy thực hiện đồng bộ một hệ thống giải pháp, đầu tư cho xã nghèo, hộ nghèo, nâng cao trình độ học vấn của người dân, hỗ trợ vốn, giới thiệu việc làm, phương tiện mưu sinh, chuyển đổi cây trồng vật nuôi, tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, điện nước, thông tin liên lạc… Đến cuối năm 2014, hộ nghèo (có mức thu nhập dưới 16 triệu đồng/người/năm) còn 1,35%, hộ cận nghèo (thu nhập dưới 21 triệu đồng/người/năm) còn 2,78%...
…Và về đích trước
TS. Trần Hoàng Ngân, Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Makerting đánh giá, trong 40 năm xây dựng và phát triển, TP. Hồ Chí Minh với tinh thần cùng cả nước, vì cả nước đã phát huy trí tuệ, tính năng động, sáng tạo, với tâm huyết và tiềm lực của nhân dân đã tạo ra những mốc son, mô hình mới. Thành phố xứng đáng với vai trò đầu tàu của cả nước trong tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư, tạo nguồn ngân sách và giải quyết những vấn đề xã hội, với những điểm nhấn đáng chú ý như, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, bình quân 10 năm qua trên 10%, gấp 1,5 lần mức tăng bình quân của cả nước. Đóng góp trên 22% GDP của cả nước và 30% tổng thu ngân sách Nhà nước, trong khi dân số của thành phố chiếm không quá 9% cả nước.
Hầu hết những lĩnh vực kinh tế của thành phố đều phát triển xứng tầm. Đến hết năm 2014, thành phố có trên 140 nghìn doanh nghiệp, 250 nghìn hộ cá thể đang hoạt động, 5.331 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với 36,65 tỷ USD. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của thành phố phát triển nhanh chóng. Thành phố hiện có 3 khu chế xuất, 13 khu công nghiệp, Khu công nghệ cao, Công viên phần mềm… Hạ tầng thương mại dịch vụ không ngừng phát triển theo hướng hiện đại với 37 trung tâm thương mại, 175 siêu thị, 240 chợ truyền thống và 743 cửa hàng tiện lợi.
Thành phố hiện là trung tâm tài chính - ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Doanh thu của hệ thống ngân hàng thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng doanh thu toàn quốc. Thành phố cũng là nơi ra đời sàn giao dịch chứng khoán, với Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố có vốn cao nhất nước và nhiều cổ phiếu công ty có vốn hóa lớn niêm yết. Ngành nông nghiệp của thành phố đang chuyển dần sang nông nghiệp chất lượng cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, chuyển dịch cơ cấu sang các loại cây, con… phù hợp với nông nghiệp đô thị và sinh thái.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, TP. Hồ Chí Minh đã trở thành trung tâm, đóng vai trò Thành phố động lực trong nền kinh tế quốc gia ở phía Nam. Sự phát triển của thành phố gắn liền với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhất là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trên cả bốn lĩnh vực phân bố lực lượng sản xuất, kết cấu hạ tầng giao thông, đào tạo chuyển dịch lao động và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, thành phố nằm giữa vùng tứ giác kinh tế năng động nhất của cả nước (thành phố là trung tâm, Đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm nông nghiệp, vùng Đông Nam bộ (Bình Dương, Đồng Nai) là trung tâm công nghiệp, Bà Rịa - Vũng Tàu là trung tâm dịch vụ du lịch…).
Đối với thế giới, thành phố là cửa ngõ giao lưu kinh tế văn hóa quốc tế, với hệ thống hải cảng quan trọng nhất Việt Nam. Trong quá trình phát triển, thành phố đã chủ động hợp tác với các tỉnh, đầu tư nhiều tuyến giao thông trọng điểm, cơ sở hạ tầng khu trung chuyển, điểm cửa khẩu… làm cầu nối để hàng hóa dịch vụ lưu thông thuận lợi trong và ngoài nước.
Thạc sĩ Hà Thị Thùy Dương – Học viện Chính trị Khu vực VI cho rằng, nói đến TP. Hồ Chí Minh sẽ thiếu sót nếu không nói đến bản sắc văn hóa trong bối cảnh hội nhập. Bởi TP. Hồ Chí Minh là nơi hội tụ của nhiều dòng chảy văn hóa, tôn giáo của nhiều tộc người. Tại thành phố có đến 54 dân tộc được công nhận cư trú ở Việt Nam đang sống. Thành phố vừa có một nền văn hóa đa dạng, nhiều sắc thái, nhiều cơ sở hạ tầng văn hóa lại vừa hội tụ văn hóa bản địa của cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Nền văn hóa của mọi vùng miền, của các tộc người trên đất nước hội tụ, đã tạo nên một nền văn hóa riêng của TP. Hồ Chí Minh. Đó là nét văn hóa yêu nước, tương thân tương ái, nghĩa hiệp phóng khoáng, dám nghĩ dám làm, ham học hỏi, khả năng hợp tác và thích ứng hoàn cảnh. Sau 40 năm phát triển không ngừng, TP. Hồ Chí Minh đang hình thành đặc tính của nền văn hóa đương đại, đó là tính khoa học, tinh thần trách nhiệm, tư duy và phong cách làm ăn theo kinh tế thị trường có ý thức công dân và xem trọng thực tế.