AMC cần hướng tới chất lượng, lành mạnh và hiệu quả
“Công tác xử lý nợ xấu là một phần trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống tài chính - ngân hàng mà Chính phủ và NHNN đang thực hiện. Vì vậy, việc thành lập một công ty mua bán nợ xấu tập trung (AMC) cũng cần được tiến hành một cách chủ động, vì chất lượng, sự lành mạnh và hiệu quả của hệ thống” - TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính ngân hàng chia sẻ.
TS. Cấn Văn Lực |
Nhìn nhận của ông về bối cảnh thành lập AMC tập trung để xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam?
Một số nước trong khu vực phải tiến hành các hoạt động xử lý các vấn đề trong hệ thống tài chính ngân hàng trong tình thế bắt buộc khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 bùng nổ. Còn ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đang tiến hành tiến trình tái cấu trúc hệ thống tài chính ngân hàng, trong đó có công tác xử lý nợ xấu một cách chủ động và vì chất lượng. Bên cạnh đó, xét về quy mô nợ xấu khi phải xử lý thì như ở Indonesia là 30%; hay Thái Lan lên tới 45% (và khi đó họ phải cần hỗ trợ từ IMF). Việt Nam chúng ta không trong tình trạng như vậy, do đó việc thành lập AMC tập trung cần tính toán kỹ lưỡng và mang tính chủ động.
Vậy ông có ủng hộ phương án công ty AMC này thuộc NHNN?
Về nguyên tắc thì tôi ủng hộ vì đây là một nhu cầu bức thiết để xử lý nợ xấu cho hệ thống NHTM, cũng như là trên bảng cân đối của DN. Qua đó sẽ giúp khả năng đáp ứng điều kiện tài chính của DN đối với ngân hàng tốt lên. Ngân hàng có điều kiện về vốn liếng hơn, và lành mạnh hơn trong bảng cân đối tài sản nên có thể cho vay ra nhiều hơn.
Mô hình AMC nên như thế nào?
Có nhiều mô hình: Có thể là thuộc Nhà nước nhưng phải có tính độc lập. Tức là thuộc Nhà nước về mặt hành chính nhưng sẽ độc lập, tự chủ về hoạt động, về cơ chế tài chính… AMC tập trung này cũng có thể dưới hình thức là công ty cổ phần hoặc như ở bên Mỹ là dưới dạng quỹ. Ở Malaysia và Indonesia, các công ty này thuộc NHTW còn ở Hàn Quốc và Thái Lan lại thuộc Bộ Tài chính…
Và vốn cho AMC này nên lấy ở những nguồn nào?
Thông thường nguồn chính sẽ là trái phiếu. Trái phiếu dưới dạng Chính phủ phát hành hoặc là AMC tập trung (sau khi thành lập) phát hành và được Chính phủ bảo lãnh. Ở nước ngoài, ví dụ một số nước Đông Nam Á, lượng vốn của các AMC từ phát hành trái phiếu phải chiếm đến khoảng 70-80%. Một nguồn khác có thể đến từ việc các NHTM khỏe mạnh góp vào (như bên Malaysia đã làm). Ngoài ra, cũng có thể huy động nguồn vốn từ các tổ chức tài chính tư nhân trong và ngoài nước.
Nhưng làm sao để xác định giá của các khoản nợ xấu?
Thông thường nó được xác định theo giá thị trường, căn cứ vào 3 yếu tố: Thứ nhất, dòng tiền của khoản nợ đó trong tương lai; Thứ hai, giá trị tài sản thế chấp; Thứ ba, liên quan đến hồ sơ pháp lý của khoản vay đó (có đầy đủ không) cũng như tính thanh khoản của thị trường mua bán nợ. Khi các ngân hàng đưa ra giá cho các khoản nợ xấu của mình sẽ phải dựa trên những căn cứ này.
Vậy các yếu tố mấu chốt, quan trọng nhất đảm bảo cho một AMC thành công là gì?
Phải có ít nhất 6 điều kiện cơ bản. Một là, phải có khung pháp lý cho AMC này hoạt động, tức là phải có luật lệ riêng cho nó. Ví dụ tại các nước trong khu vực trước đây khi phải xử lý nợ xấu thì họ phải đưa ra luật riêng cho hoạt động của công ty này. Hai là, phải trao cho nó những quyền năng đặc biệt. Ví dụ như quyền không cần xin ý kiến của bên đi vay trước khi ký chuyển nhượng hay mua bán khoản nợ. Đây là một điều kiện rất quan trọng để tạo ra sự nhanh gọn, thông thoáng trong xử lý nợ xấu. Ba là, phải đảm bảo cho AMC này có tính độc lập tương đối trong hoạt động (ít bị can thiệp). Bốn là, phải có tính minh bạch, công khai về việc sử dụng tiền để mua các khoản nợ xấu, việc định giá và bán nợ xấu… Muốn vậy, công ty này phải có quy trình giám sát của một tổ chức độc lập nào đó và/hoặc là phải được kiểm toán; Năm là, bán nợ xấu trên nguyên tắc thị trường và cuối cùng đội ngũ cán bộ tham gia vào AMC này. Thông thường, tham gia vào đây phải là những chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực như: pháp lý, tài chính, bất động sản...
Ảnh minh họa
Còn vấn đề khung thời gian tồn tại cho một AMC như vậy có nên đặt ra không?
Cũng nên đặt ra. Khung thời gian tồn tại của một AMC nên căn cứ theo mục tiêu. Nếu mục tiêu chỉ là xử lý nợ xấu thì thông thường chỉ khoảng 5 - 10 năm; Còn nếu mục tiêu để hỗ trợ tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thì nó sẽ tồn tại lâu dài. Như tại Mỹ chỉ tồn tại 3 năm; Malaysia là 7 năm nhưng Thái Lan thì thành lập từ 2001 hay Hàn Quốc từ năm 1962 đến giờ vẫn tồn tại.
Ở Việt Nam, nếu tồn tại nên theo khung nào?
Theo tôi hiểu thì mục tiêu cơ bản là để xử lý dứt điểm nợ xấu nên chắc là cho khung thời gian ngắn thôi, tức là từ 5 – 10 năm.
Xin cảm ơn ông!
Đỗ Lê thực hiện