Bài 2: Lật lại từ tư duy đến chính sách
Nguyên nhân chính của việc sụt giảm vốn đầu tư Nhà nước vào nông nghiệpnằm ở chính sách đầu tư thiên lệch theo tư duy “công nghiệp hóa” thuần túy cho mục tiêu tăng trưởng. Do đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi được triển khai nhiều năm ở các địa phương làm thay đổi suy nghĩ về vai trò của nông nghiệp.
Thiên lệch kéo dài
Theo TS. Võ Hùng Dũng, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Cần Thơ, trong vòng 15 năm trở lại đây, tỷ lệ vốn đầu tư của Nhà nước vào ngành nông nghiệp ngày càng sụt giảm so với các lĩnh vực khác.
Thiên lệch trong đầu tư công vào lĩnh vực nông nghiệp khiến trình độ ứng dụng công nghệ sản xuất của nhiều DN lạc hậu 3-4 thế hệ
Cụ thể, năm 2000 vốn đầu tư Nhà nước vào nông nghiệp chiếm 2,5% GDP, năm 2005 còn 1,9% và đến năm 2010 chỉ còn tương đương 1,2%. Ông Dũng cho rằng nguyên nhân chính của việc sụt giảm này nằm ở chính sách đầu tư thiên lệch theo tư duy “công nghiệp hóa” thuần túy cho mục tiêu tăng trưởng.
Do đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi được triển khai nhiều năm ở các địa phương làm thay đổi suy nghĩ về vai trò của nông nghiệp. Nhiều địa phương cho rằng xu hướng ngày càng xem nhẹ tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp theo nghĩa là ngành kinh tế độc lập với nguồn nguyên liệu đầu vào từ nông nghiệp là mục đích của hướng đi.
Tuy nhiên, đây là cách làm thiếu bền vững và chứa đựng những nghịch lý khó cân bằng được. Bởi một khi thể chế nông nghiệp chưa được cải thiện, đầu tư tư nhân vào nông nghiệp còn thấp, thì với nguồn vốn ngân sách chỉ chiếm khoảng vài % GDP thì không có kỳ vọng gì về sự giàu có từ nông nghiệp.
Phân tích kỹ hơn về thể chế vận hành và các chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, ông Dũng cho rằng, hiện nay, mức độ lạc hậu của các thể chế trong tổ chức sản xuất nông nghiệp lớn hơn nhiều so với các lĩnh vực khác.
Các luật như Luật Đầu tư nước ngoài (năm 1988), Luật DN (năm 2000 và 2003) đã mang lại “luồng gió mới” cho phát triển công nghiệp dịch vụ đô thị, nhưng với nông nghiệp thì có rất ít những ứng dụng hiệu quả.
Đặc biệt là Luật Đất đai với mức giới hạn thời gian thuê đất quá ngắn đã không còn phù hợp với các dự án dài hạn. Chính điều này đã không thu hút được các nhà đầu tư lớn. Vì thế trong suốt một thời gian dài, từ 1988 -2010, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm 4% với tỷ lệ vốn cực nhỏ là 1,6% tổng vốn đăng ký đầu tư vào tất cả các lĩnh vực.
Một khía cạnh khác, theo TS. Nguyễn Văn Huân (Viện Kinh tế Việt Nam) do thiên lệch trong cách bố trí nguồn vốn ngân sách và chưa khuyến khích được DN đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nên trong nhiều năm qua trình độ ứng dụng công nghệ mới của các DN khối ngành này rất lạc hậu so với nhu cầu của thị trường.
Khảo sát trên 100 DN tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy có 68 DN sử dụng công nghệ chế biến nông sản lạc hậu từ 3 đến 4 thế hệ so với trình độ của thế giới và khu vực hiện nay, 63% nhà xưởng của các DN là tạm bợ, chắp vá và không đạt các tiêu chuẩn về vệ sinh. Tại các tỉnh ĐBSCL tỷ lệ này còn cao hơn.
Đơn cử như Bến Tre, mặc dù nhiều năm qua, các DN chủ yếu tập trung vào ngành chế biến dừa, nhưng có tới 70% DN vẫn hoạt động tiểu thủ công. Một số DN đầu tư thực hiện chế biến sâu các sản phẩm đạt chuẩn quốc tế thì không thể tuyển được lao động có trình độ và tay nghề vì hầu hết lượng lao động này bị hút về khu vực TP. Hồ Chí Minh.
Theo TS. Huân, việc thiếu đầu tư và đầu tư thiên lệch cũng là nguyên nhân dẫn tới lượng lao động trung gian trong khối ngành nông nghiệp cực lớn, khiến giá trị hạt gạo, con cá bị phân phối lại qua nhiều tầng nấc trung gian và lợi nhuận của cả DN và người dân đều không xứng với chi phí, công sức bỏ ra.
Phân tích so sánh ở ngành lúa gạo và ngành thủy sản, ông Huân cho rằng trong khi ngành lúa gạo do sản xuất phân tán, DN chế biến XK và vùng nguyên liệu nằm cách xa nhau nên lợi ích bị “rơi vãi” cho khâu trung gian rất lớn, trong khi đó ngành tôm và cá tra, khâu trung gian ít hơn vì đa số các cơ sở chế biến nằm gần khu vực vùng nguyên liệu.
Tái cơ cấu bắt đầu từ đâu?
Rõ ràng sự thiên lệch trong cách bố trí nguồn vốn ngân sách cho nông nghiệp-nông thôn cũng như những chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đang khiến cho nhiều địa phương vấp phải hàng loạt các vấn đề về sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nông sản. Nó cũng làm cản trở quá trình đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) ở nhiều tỉnh thành, đặc biệt là các tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL.
Để dần lấy lại sự cân bằng cho ngành nông nghiệp, giữa tháng 6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” với kỳ vọng đến năm 2020, thu nhập hộ gia đình nông thôn tăng lên 2,5 lần so với năm 2008, số xã đạt tiêu chí NTM là 20% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.
Tuy nhiên, muốn đạt được mục tiêu này, theo nhiều chuyên gia, việc đầu tiên là phải cải tổ được thể chế và các chính sách thu hút đầu tư vào ngành nông nghiệp. Theo đó, GS.TS Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam cho rằng: “chìa khóa” cần nhất lúc này là thúc đẩy được hợp tác công-tư trong lĩnh vực nông nghiệp.
Theo ông Bửu, việc cổ phần hóa các tổng công ty Nhà nước mới chỉ diễn ra ở lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, còn lĩnh vực nông nghiệp thì vẫn chưa có mô hình chuyển đổi nào hiệu quả. Các DN Nhà nước lớn vẫn chi phối thị trường ở nhiều ngành hàng và được hưởng nhiều chính sách ưu đãi trong sản xuất, kinh doanh.
Do đó các chính sách hợp tác công-tư chưa công bằng, rõ ràng nên các DN nước ngoài rất e ngại hợp tác.
Ở góc độ cụ thể hơn, TS. Võ Hùng Dũng cho rằng, muốn nhanh chóng phá bỏ sự thiên lệch trong đầu tư vào nông nghiệp, trước hết, Nhà nước và các địa phương phải bỏ vốn đầu tư vào các cụm ngành. Các cụm ngành này bao gồm một nhóm DN hạt nhân, các nhà sản xuất, cung cấp dịch vụ đầu vào, dịch vụ hỗ trợ.
Trong đó ngân sách phải đảm bảo cơ sở hạ tầng thuận tiện để cụm ngành này vận động như một khối liên kết. Lấy ví dụ về các cụm ngành thí điểm hiệu quả, ông Dũng cho rằng cách làm của Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) với chuỗi liên kết cánh đồng mẫu lớn, hoặc cách làm của các dự án trồng hoa tại TP. Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng), hay các dự án hợp tác trồng rau sạch tại Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh) có thể nghiên cứu để làm mẫu nhân rộng ở các địa phương.
Cụ thể, tại các dự án cánh đồng mẫu lớn của AGPPS, DN đã kết nối được chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm lúa gạo. Hiện nay, với quy hoạch thương nhân được phép xuất khẩu gạo dần tiến tới phải có vùng nguyên liệu, AGPPS chắc chắn sẽ nhận được sự hợp tác của nhiều đối tác nhập khẩu bởi chất lượng gạo có sự đồng đều cao hơn so với các DN khác.
Khi phát triển rộng ra toàn vùng, AGPPS và các mô hình tương tự sẽ vươn tới được nhiều địa phương trồng lúa trọng điểm. Đó cũng là hạt nhân để các địa phương đẩy mạnh phát triển các chi nhánh khu vực, hình thành các DN nông nghiệp trong chuỗi liên kết, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các xã đang xây dựng NTM.
Theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đến năm 2015 cả nước hình thành và phát triển ít nhất 80 DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, xây dựng được 3 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại các tỉnh, vùng kinh tế trọng điểm. Giai đoạn 2016 - 2020, nâng số DN này lên mức 200 DN và xây dựng khoảng 5 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại các tỉnh, khu vực trọng điểm. |
Bài và ảnh Thạch Bình