Bảo hiểm hưu trí bổ sung: Cơ hội để DN thu hút nhân tài
|
Thưa ông, vì sao Bộ lại chọn thời điểm này để triển khai chính sách BHHTBS?
Thời điểm triển khai quỹ theo kinh nghiệm quốc tế xuất phát từ thời kỳ cơ cấu dân số vàng. Hiện ở nước ta, số người đang ở độ tuổi lao động đang chiếm 56-60% tổng dân số. Cơ cấu dân số vàng kéo dài đến khoảng 2025.
Về khía cạnh kinh tế, ở hầu hết các nước, thời kỳ dân số vàng là thời kỳ người lao động (NLĐ) tạo ra nhiều của cải cho xã hội và có điều kiện để tích lũy nhất. Thái Lan đã triển khai chính sách BHHTBS từ năm 1987, thời điểm đó ngưỡng thu nhập bình quân của người dân chỉ 1.000 USD/năm. Ở nước ta, thu nhập bình quân đã đạt đến 1.200 USD/người/năm và còn tiếp tục mức gia tăng.
Ở một khía cạnh khác, nhận thức của xã hội với BHHTBS nói riêng và hệ thống hưu trí nói chung đã thay đổi rất nhiều. Đa số họ cho đây là chính sách rất tốt vì nó vừa tạo ra tích lũy xã hội, vừa giúp họ có thu nhập sau khi nghỉ hưu. Chúng tôi mong muốn BHHTBS ra đời sẽ là tiền đề, bước đệm để cải cách hệ thống hưu trí trong thời gian tới, để trong tương lai hình thành hệ thống hưu trí đa tầng.
Vậy tham gia BHHTBS sẽ có lợi gì cho NLĐ, Nhà nước và cho DN?
Việc xây dựng chính sách BHHTBS đầu tiên phải xuất phát từ lợi ích của NLĐ. Hệ thống hưu trí cơ bản hiện nay mới đảm bảo mức sống tối thiểu vì lương hưu rất thấp và áp lực tăng lương rất lớn. BHHTBS ra đời sẽ là tầng thứ 2 bổ sung cho thu nhập từ hưu trí cơ bản.
Ở Thái lan, Pháp, Mỹ, hưu trí cơ bản chỉ chiếm tỷ lệ từ 40-50% cơ cấu lương hưu. Còn phần lớn lương hưu cao từ tầng BHHTBS. Quyền lợi thứ hai là NLĐ được hưởng chính là sự yên tâm gắn bó với DN hơn khi họ biết chắc được tương lai của mình được đảm bảo khi hết tuổi lao động. Đây là cơ hội tốt để đảm bảo nâng cao năng suất lao động của cá nhân, của DN và toàn xã hội.
Về phía Nhà nước, BHHTBS ra đời sẽ là bước đệm, là cơ sở trong thời gian tới để cải cách hệ thống lương hưu theo hướng đa tầng, làm giảm áp lực tăng chi từ NSNN cho lương hưu.
Về phía DN, cái lợi đầu tiên họ được hưởng theo kinh nghiệm các nước chỉ ra là BHHTBS là công cụ để giữ chân, thu hút tài năng về DN, giúp NLĐ gắn bó với DN. Tham gia BHHTBS cho NLĐ chính là giúp DN tiết kiệm chi phí vì khi tham gia thì phần đóng của DN sẽ được giảm trừ thuế thu nhập, NLĐ được giảm trừ thuế thu nhập cá nhân. Phần này góp phần tích lũy cho NLĐ trong tương lai.
BHHTBS ra đời đáp ứng nhu cầu thực sự của DN, đảm bảo nhu cầu cần thiết cho DN. Không những thế, nó còn phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Trong tất cả các nước APEC, chỉ còn duy nhất Việt Nam chưa triển khai BHHTBS, các nước trong khu vực các đều đã triển khai.
Đến thời điểm này, Bộ lường trước được những khó khăn gì khi triển khai đề án này?
Điểm khó khăn nhất chính là sự hiểu biết của cả NLĐ, DN, và đối tác xã hội khác cũng như người dân. Chính sách BHHTBS ở các nước khác không có gì mới lạ. Thái Lan đã triển khai từ 1987, Pháp đã triển khai từ 1970… người dân đã quá quen thuộc. Còn ở nước ta chính sách BHHTBS còn rất mới.
Bên cạnh đó, hiện các DN nước ta đang triển khai hàng loạt sản phẩm liên quan đến hưu trí nên rất dễ gây nhầm lẫn cho NLĐ, người sử dụng lao động (NSDLĐ) trong xã hội. Chúng ta cần phân biệt rất rõ sản phẩm hưu trí mang tính chất lợi nhuận, thương mại do các DN bảo hiểm nhân thọ cung cấp cho NLĐ. Với chính sách BHHTBS mang hoàn toàn tính chất an sinh, xã hội có sự tham gia của ba bên là nhà nước, NLĐ và NSDLĐ.
Ngoài ra, những khó khăn của nền kinh tế cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc triển khai đề án.
Vậy, tham gia chính sách bảo hiểm HTBS, NLĐ sẽ phải đóng góp như thế nào?
Trong đề án chúng tôi thiết kế tổng mức đóng góp của NLĐ tối đa là 22% tiền lương. Nhưng đề án cũng quy định phần thực đóng góp của NLĐ tối đa không quá 50% tổng mức đóng góp, phần còn lại do phía NSDLĐ đóng góp. Điều này là phù hợp với khuyến nghị của các tổ chức quốc tế trong việc khuyến khích DN và NLĐ tham gia. Chúng tôi thấy đây là điều rất hợp lý và chúng tôi sẽ quy định trong dự thảo như vậy.
Nếu NLĐ rủi ro, bị chết, tai nạn thì toàn bộ đóng góp của NLĐ trở thành tài sản mang tính thừa kế. Còn nếu NLĐ đang đóng góp BHHTBS mà sang DN khác không tham gia thì hiện chúng tôi đang nghiên cứu. Có thể phần đóng góp đó sẽ cho NLĐ được hưởng một lần nhưng họ sẽ phải chịu thuế. Chúng tôi mong muốn xây dựng chính sách đảm bảo phần đóng góp của NLĐ luôn được bảo toàn còn NSDLĐ sẽ chỉ được hưởng phần trăm ít hơn mức đóng góp.
Khi tham gia BHHTBS với mức tối thiểu và tối đa thì khi về hưu, NLĐ sẽ được hưởng như thế nào?
Cái đó còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên cách tính rất đơn giản là đến lúc NLĐ đến tuổi nghỉ hưu thì tổng tài khoản tích lũy của họ bao gồm 3 nguồn: từ NLĐ đóng góp, từ NSDLĐ đóng góp, và từ phần lãi thu được trong quá trình đóng góp đó. Sau đó chia cho số tháng được hưởng. Thiết kế của chính sách là NLĐ sẽ được hưởng khoảng 15 năm sau khi nghỉ hưu. Đây là mô hình mức đóng góp xác định chứ không phải mức hưởng xác định. Còn quỹ hưu trí hiện tại là mức hưởng xác định là 75% mức lương.
Tuy nhiên thực tế hiện nay, DN đã phải đóng quỹ bảo hiểm tương đối cao, khoảng 20%, nay đóng quỹ bổ sung nữa thì có là gánh nặng hay không?
Chính vì thế chúng tôi mới quy định bảo hiểm HTBS mang tính tự nguyện chứ không quy định bắt buộc. Nếu bắt buộc mới là gánh nặng cho DN. Tuy nhiên, như tôi đã nói, đây là công cụ để DN thu hút tài năng. Hệ thống hưu trí cở bản hiện nay mới là hệ thống dành cho tất cả mọi NLĐ, còn BHHTBS dành cho NLĐ mong muốn được tiếp cận với hưu trí cao hơn. Đây là giải pháp hỗ trợ của NSDLĐ để NLĐ gắn bó với mình hơn. Nên chắc chắn đối tượng tham gia bảo hiểm HTBS sẽ ít hơn hệ thống hưu trí cơ bản như hiện nay.
Vì lẽ đó, hiện chúng tôi cũng đã nhận được đề nghị tham gia từ phía hơn 20 DN, bao gồm cả tập đoàn Nhà nước, tập đoàn đa quốc gia và thậm chí nhiều DN tư nhân làm ăn tốt cũng có nhu cầu tham gia chính sách BHHTBS để coi đây là công cụ giúp gắn bó NLĐ với DN.
Cũng có ý kiến lo lắng cho quyền lợi của NLĐ nếu Quỹ HTBS thua lỗ. Tuy nhiên, đây là điều không đáng lo vì chúng tôi quy định ngân hàng giám sát chặt chẽ hoạt động của quỹ. Hơn nữa, đề án cũng quy định sẽ có ít nhất 70% tài sản từ quỹ HTBS tích lũy trong tài khoản của NLĐ phải được đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Như vậy, nếu công ty quản lý quỹ thua lỗ, thì NLĐ vẫn được hưởng phần lợi từ TPCP không bao giờ mất.
Xin cảm ơn ông.
Dương Công Chiến thực hiện