Bẫy thanh khoản!
Đó là tâm lý của khá nhiều doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay. Cũng chính bởi tâm lý này nên đã có ý kiến lo ngại, Việt Nam có thể rơi vào bẫy thanh khoản như Nhật Bản trong giai đoạn khủng hoảng đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 hay không? Khi đó, mặc dù lãi suất tại Nhật đã hạ đến 0% - mức không thể hạ thêm được nữa, song doanh nghiệp vẫn không hấp thu được vốn, sản xuất vẫn bị đình trệ.
Quả vậy, khác với thời gian trước đây, tín dụng tăng trưởng thấp do thanh khoản của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn và mặt bằng lãi suất cao. Hiện, thanh khoản của hệ thống rất dồi dào. Thậm chí nhiều NHTM còn thừa vốn khả dụng nên đẩy mạnh mua vào trái phiếu Chính phủ và tín phiếu NHNN, đẩy lãi suất trái phiếu Chính phủ và tín phiếu NHNN giảm mạnh. Mặt bằng lãi suất cũng giảm mạnh sau nhiều giải pháp của NHNN. Thời gian qua, các NHTM cũng liên tục giảm lãi suất cho vay, song tín dụng vẫn không thể tăng trưởng. Thậm chí ngay cả những gói tín dụng với lãi suất rất ưu đãi, mà các NHTM triển khai thời gian qua cũng chưa giải ngân được hết. Đơn cử như Eximbank, trước khi NHNN áp trần lãi suất cho vay 15%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên, ngân hàng này đã có một gói tín dụng 1.500 tỷ đồng dành cho doanh nghiệp thu mua lương thực, với lãi suất ưu đãi 14%/năm, nhưng cho đến giờ chỉ mới giải ngân được 600 tỷ đồng; các gói vay khác có lãi suất dao động từ 13,5-15%/năm cũng đã được triển khai nhưng doanh nghiệp vẫn không mặn mà. Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, tính đến 16/4, tín dụng vẫn đang tăng trưởng âm tới 1,71% so với cuối năm 2011.
Nguyên nhân chính là do sức cầu yếu, hàng hóa tiêu thụ chậm, hàng tồn kho tăng cao nên các doanh nghiệp không dám vay vốn để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Rõ ràng, đình trệ đang là rủi ro lớn nhất đối với nền kinh tế hiện nay. Mặc dù theo TS. Vũ Viết Ngoạn - Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, thời điểm hiện tại vẫn còn quá sớm để đặt ra vấn đề Việt Nam rơi vào bẫy thanh khoản. Nhưng nếu tình hình không được giải quyết sớm nhất có thể, nếu căng thẳng còn kéo dài thì chúng ta cũng sẽ tiệm cận tình trạng đó. Khi ấy còn nguy hiểm hơn.
Vấn đề là xử lý bằng cách nào. Kinh nghiệm quốc tế cũng như thực tế thời gian qua đã chứng minh, một mình chính sách tiền tệ là chưa đủ sức để “giải cứu” doanh nghiệp, vực dậy nền kinh tế mà cần sự hỗ trợ của chính sách tài chính. Bởi vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 13 với nhiều giải pháp về thuế như miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế... nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh. Thế nhưng, dường như các giải pháp vẫn chưa giải quyết được khó khăn lớn nhất hiện nay của doanh nghiệp là đầu ra cho sản xuất.
Thiết nghĩ, trong bối cảnh hiện nay, cần có những giải pháp để kích cầu, đặc biệt là cầu tiêu dùng. Theo đó, cần tính đến việc miễn giảm thuế thu nhập cá nhân, miễn thuế VAT đối với các nhóm hàng hóa tiêu dùng thiết yếu để kích thích tiêu dùng của người dân. Đi đôi với đó là các giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu. Chỉ khi đầu ra của sản xuất được khơi thông, tín dụng mới phục hồi và các giải pháp giảm lãi suất mới phát huy tác dụng.
Mặc dù vậy, tín dụng năm nay cũng khó có thể đạt được mục tiêu đã đề ra là tăng trưởng 17-19%. Thế nhưng, cũng không nên cưỡng cầu, điều quan trọng nhất là chất lượng và hiệu quả tín dụng. Nếu không rất có thể thoát được khó khăn này, chúng ta lại rơi vào rủi ro khác liên quan đến chất lượng tín dụng.
Minh Trí