Bình thường hóa CSTT tại Mỹ và EU: Những khác biệt về điều kiện kinh tế
Chính sách tiền tệ linh hoạt
Hiện tại kinh tế Mỹ và khu vực EU – chiếm gần 1/3 sản lượng toàn cầu đang có sự phục hồi thuận lợi với những tín hiệu kinh tế khả quan xuất hiện trên hầu hết các khía cạnh quan trọng của kinh tế vĩ mô như chỉ số IIP ngành công nghiệp, PMI, chỉ số bán lẻ và tiêu dùng, cán cân thương mại; lạm phát; thất nghiệp…
Liệu Mỹ và EU đang có sự tương đồng trong các điều kiện và diễn biến kinh tế? |
Thực tế đó cũng là cơ sở để Fed và NHTW châu Âu - ECB lên kế hoạch rút dần các gói nới lỏng tiền tệ bất thường. Vì vậy, mặc dù bắt đầu sớm hơn EU, song gần đây quan điểm bình thường hóa trong điều hành CSTT đều được Fed và ECB nhấn mạnh trong các cuộc họp thường kỳ của NHTW.
Điều đó đồng thời cũng làm xuất hiện một dấu hỏi về việc liệu Mỹ và EU đang có sự tương đồng trong các điều kiện và diễn biến kinh tế?
Theo dự báo sơ bộ trong quý III, kinh tế Mỹ đã tăng trưởng bình quân khoảng 2,2% trong 9 tháng – là một kết quả ấn tượng so với mức tăng 1,4% cùng kỳ năm 2016. Nhịp độ tăng trưởng đều đặn này đã làm gia tăng nhu cầu về lao động, làm cho tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức 4,2% từ mức 4,9%, thu nhập bình quân thực tế một giờ đã tăng gần 0,7%.
Trong khi đó bức tranh lạm phát giá cả và chi phí của nước Mỹ cũng diễn ra khá ôn hòa, vào tháng 9, chỉ số giá tiêu dùng cơ bản đã tăng 1,7%, chỉ số tiêu dùng cá nhân diễn biến ổn định với mức tăng bình quân hàng năm là 1,4% và chi phí lao động đã tăng 0,3% so với năm ngoái.
Mặc dù vậy, những con số này vẫn chưa đủ đảm bảo về những ảnh hưởng của lạm phát tới các thị trường lao động ở trạng thái thắt chặt. Những quan ngại về nhu cầu lao động xét về mặt kỹ thuật là đúng đắn, song đó cũng chỉ là quan điểm trung lập về mối đe dọa của lạm phát nếu chính sách tài khóa được nới lỏng trong tương lai.
Thúc đẩy nền kinh tế phục hồi?
Cả Fed và các thị trường trái phiếu đều tỏ ra lo lắng về gói kích thích tài khóa sắp tới. Nhưng tuyên bố của Chính phủ về kế hoạch cắt giảm thuế doanh nghiệp và thuế cá nhân kỳ vọng sẽ làm gia tăng các khoản chi tiêu hộ gia đình và các khoản chi cho đầu tư, chiếm tới 80% quy mô kinh tế Mỹ. Triển vọng đó rõ ràng sẽ tạo áp lực về lạm phát cho nền kinh tế Mỹ.
Chính vì vậy, nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu phải định giá lại các khoản nợ chính phủ đang gia tăng bởi vì họ không tin rằng việc cắt giảm thuế sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế tăng lên tương ứng để có thể tạo ra khoản thu nhập bù đắp được khoản thuế dự kiến cắt giảm khoảng 6 nghìn tỷ USD. Thực tế đó phản ánh rằng vị thế tài khóa của Mỹ không tạo điều kiện nhiều cho kế hoạch cắt giảm thuế ở quy mô lớn.
Trong năm 2017, thâm hụt quỹ liên bang đã tăng 14% so với năm 2016, đạt 666 tỷ USD, khoảng 3,5% GDP trong khi đó nợ công tiếp tục tăng lớn hơn 20,4 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 105,4% GDP. Như vậy, những tín hiệu trên thị trường trái phiếu của Mỹ rất được quan tâm, Fed sẽ phải quan sát diễn biến của đường cong lợi tức trái phiếu để có các quyết sách phù hợp.
Trong khi đó, vị thế của ECB lại rất khác, mặc dù tăng trưởng kinh tế đã đạt mức tăng trưởng cao trên 2% trong 2 quý gần đây nhưng ủy ban tiền tệ vẫn đang phải vật lộn với tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao 9,1% và dao động có khoảng cách lớn giữa các nước trong khối (Đức 3,6%, Pháp là 9,8%, Ý là 11,2%, 17,1% tại Tây Ban Nha và 21% tại Hy Lạp).
Đồng thời, diễn biến giá cả của khu vực đồng tiền chung có vẻ ổn định hơn, tỷ lệ lạm phát lõi hiện tại là 1,2% - vẫn thấp hơn mức mục tiêu là 2%. Vì thế mà ECB vẫn khẳng định việc cần duy trì gói kích thích tiền tệ phù hợp.
Trong khi đó, tình trạng của chính sách tài khóa lại có sự khác biệt lớn so với Mỹ - đấy chính là lý do quan trọng cho quyết định duy trì CSTT nới lỏng ở một mức độ lớn. Pháp, Ý, Tây Ban Nha chiếm khoảng 1/2 GDP của khu vực EU vẫn duy trì chính sách tài khóa (CSTK) thắt chặt. Trong đó Pháp và Tây Ban Nha bị yêu cầu giảm thâm hụt ngân sách xuống 3%/GDP và phải tiến tới cân bằng về sổ sách trong vài năm tới, còn Ý phải giảm nợ công từ khối nợ khổng lồ 158% GDP sau khủng hoảng.
Bên cạnh đó, CSTT nới lỏng cũng sẽ giúp tỷ giá của đồng EUR duy trì ở ngưỡng có thể thúc đẩy cho hoạt động xuất khẩu ở những nước có nhu cầu nội địa thấp. Bằng chứng là đến thời điểm hiện nay, cán cân thương mại của khu vực EU dự báo thặng dư 400 tỷ USD đối với xuất khẩu ròng hàng hóa và dịch vụ, thực tế đó sẽ có đóng góp tích cực cho tăng trưởng và cải thiện tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực.
Tóm lại, tuy có chung định hướng điều hành CSTT trong tương lai nhưng với những diễn biến kinh tế của Mỹ và EU hiện nay thì chắc chắn cấp độ, thời gian thực hiện bình thường hóa CSTT của hai đầu tàu kinh tế này sẽ có sự khác biệt. Hiện tại, Mỹ cũng không vội vàng gì trong việc điều chỉnh chính sách khi vẫn tồn tại những bất ổn liên quan đến CSTK và nỗi lo ngại về rủi ro của lạm phát gia tăng.
Và EU cũng vậy, ECB vẫn cam kết sẽ giữ nguyên kế hoạch kéo dài các gói kích thích tiền tệ quy mô lớn nếu tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát vẫn còn xa so với mục tiêu, CSTK vẫn điều hành theo hướng thắt chặt và những bất ổn chính trị trong nội khối vẫn chưa ngừng chấm dứt.