Cà phê cuối tuần: Đừng vội mừng khi đầu tư Nhà nước giảm quá nhanh
Không chỉ ở lĩnh vực đầu tư hạ tầng, đã hơn 2 năm qua, không có bất kỳ dự án lớn nào trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh sử dụng vốn Nhà nước được khởi công. Cùng với đó, 12 dự án lớn thua lỗ của ngành công thương mới đang trong giai đoạn được “bắt bệnh” hoặc phục hồi rất chậm chạp.
Lẽ thường, đầu tư từ khu vực Nhà nước giảm tốc sẽ là dấu hiệu tích cực cho thấy nhiệm vụ dẫn dắt cho tăng trưởng kinh tế đang được chuyển dần sang vai của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, diễn biến tăng trưởng trong nửa đầu năm lại cho thấy dấu hiệu bất ổn ẩn sau sự chuyển vai đó. Việc phụ thuộc ngày càng lớn vào khu vực FDI cho thấy tăng trưởng của nền kinh tế chủ yếu là do khối này dẫn dắt, trong khi đó vai trò của khu vực tư nhân trong nước còn khá yếu ớt.
Rõ ràng, quá trình chuyển vai vẫn chưa diễn ra thành công, khiến đầu tư Nhà nước giảm không hẳn là dấu hiệu đáng mừng, bởi khu vực tư nhân trong nước vẫn chưa đủ sức gánh vác tăng trưởng.
Xoay quanh vấn đề này, thoibaonganhang.vn trao đổi với TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội.
Trước đây nhiều ý kiến cho rằng chúng ta quá sính các dự án đầu tư lớn. Tuy nhiên đến nay phải thấy rằng khi đầu tư chững lại thì lập tức ảnh hưởng tới tăng trưởng. Vậy, cần nhìn nhận như thế nào về vai trò của các dự án lớn?
Đúng là kể từ khi Luật Đầu tư công có hiệu lực đến nay thì liên tục từ năm 2016, 2017 và 6 tháng đầu năm 2018 tốc độ giải ngân đầu tư công vẫn chưa được cải thiện.
Mặc dù nền kinh tế đã cơ cấu lại nhưng thành tựu của quá trình đó chưa hẳn như mong muốn, cho nên tăng trưởng vẫn phải dựa vào vốn đầu tư, và trong đó vốn đầu tư công là khoản mồi rất quan trọng. Vì vốn đầu tư công đều vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công trình trọng điểm quốc gia, như vậy sẽ kéo theo gấp 2-3 lần vốn xã hội cùng vào để phục vụ cho dự án đó.
Hướng thứ 2 là Chính phủ thông qua lực lượng vật chất quan trọng trong nền kinh tế là các doanh nghiệp nhà nước đầu tư vào sản xuất. Tuy nhiên, những lĩnh vực chính như lọc hoá dầu, công nghiệp hoá chất, cơ khí đóng tàu… chúng ta đều thấy là không thành công.
Có thể kể ra đây một số trường hợp điển hình là 2 nhà máy phân đạm DAP, Nhà máy lọc hoá dầu Nghi Sơn, Xơ sợi Đình Vũ, 3 nhà máy nhiên liệu sinh học. Chúng ta thấy rằng đầu tư của Chính phủ trong thời gian nhiệm kỳ 2011-2016 ở khía cạnh dùng doanh nghiệp nhà nước như lực lượng vật chất quan trọng đẩy quá trình tăng tốc của nền kinh tế là không thành công.
Chính vì sự không thành công của khu vực đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới cơ cấu lại nền kinh tế còn kém hiệu quả, càng làm nổi bật lên vai trò của FDI với công nghiệp chế biến chế tạo nói riêng và nền kinh tế nói chung vẫn rất lớn.
Chúng ta thấy 97% doanh nghiệp Việt Nam đi vào hoạt động là nhỏ và siêu nhỏ, lại có tới 80% hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ bán buôn bán lẻ, bất động sản… cho nên khó cơ cấu lại nền kinh tế.
Trong khi đó, nhìn sang khối FDI, 100 doanh nghiệp xuất khẩu mà trong đó tỷ trọng của FDI chiếm gần như tuyệt đối, quyết định tới khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, thì chúng ta thấy độ chụm về xuất khẩu lớn như thế nào!
Sự chênh lệch quá lớn về thực lực như vậy là dấu hiệu để tiếp tục khẳng định quá trình tái cơ cấu nền kinh tế đến giờ phút này vẫn còn thời sự và chúng ta phải tiếp tục làm.
Theo Tổng cục Thống kê, 7 tháng đầu năm 2018, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 153,7 nghìn tỷ đồng, bằng 44,5% kế hoạch năm và tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2017 bằng 45,2% và tăng 6,4%). |
Ông có thể giải thích rõ hơn, khi đầu tư của Nhà nước không đạt yêu cầu thì nền kinh tế gặp phải những khó khăn gì?
Như tôi đã nói ở trên, đầu tư từ khu vực Nhà nước đã chững lại khá nhanh trong mấy năm gần đây, trong khi khu vực tư nhân trong nước vẫn chưa kịp tiếp quản lại vai trò đầu tàu dẫn dắt nền kinh tế.
Hệ quả là, thứ nhất chúng ta không huy động được vốn xã hội để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu. Thứ hai, không định hướng được vốn đầu tư xã hội tham gia vào các công trình trọng điểm mà thông qua các công trình đó cơ cấu lại diện mạo nền kinh tế. Thứ ba là vì thế nên vốn của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là tư nhân trong nước không được định hướng đúng với hướng phát triển.
Nhìn lại con số doanh nghiệp thành lập và số vốn đầu tư vào nền kinh tế thì tỷ trọng các doanh nghiệp mới đăng ký vào khu vực sản xuất, chế biến chế tạo là rất ít, chiếm tỷ lệ nhỏ, trong khi đó hơn 80% các doanh nghiệp hoạt động thành lập mới trong lĩnh vực dịch vụ, bất động sản… không tạo ra được động lực cho nền kinh tế chuyển đổi.
Và như vậy, khi mà cơ cấu nền kinh tế chưa chuyển dịch như mong muốn, vẫn tăng trưởng nhờ đầu tư công, mà đầu tư công không giải ngân được hết, thì đây chính là biểu hiện của việc tăng trưởng dưới tiềm năng.
Một vấn đề nữa mà chúng ta hay nói rằng nền kinh tế bị bệnh “đầu năm thong thả cuối năm vội vã” (đối với giải ngân vốn đầu tư công – PV), và đặc biệt lại không tính đến từ tháng 5 đến giữa tháng 9 hoặc đầu tháng 10 là vào mùa mưa cho nên việc thi công các công trình xây dựng cơ bản, đặc biệt công trình hạ tầng cơ sở sẽ bị hạn chế về tiến độ. Hoặc các công trình thuỷ điện phải cấp tập thi công trước mùa lũ tiểu mãn.
Cho nên, có thể thấy cái nếp của nền kinh tế vẫn chưa thực sự thay đổi theo hướng mà chúng ta mong muốn.
Có thể hiểu quan điểm của ông là đầu tư nhà nước rút dần khỏi nền kinh tế chỉ hiệu quả khi tạo lập được nền tảng vững chắc cho khu vực tư nhân tham gia vào đây. Vậy ông đánh giá thế nào về thực lực của khối doanh nghiệp tư nhân hiện nay?
Trong khoảng 1 năm trở lại đây, chúng ta thấy nhiều doanh nghiệp tư nhân có khả năng vươn lên sánh ngang với các doanh nghiệp nhà nước vốn có truyền thống từ lâu đời.
Có thể dẫn ra như sân bay Vân Đồn được thực hiện bằng 100% vốn của doanh nghiệp tư nhân mà không cần có sự huy động vốn từ ngân sách nhà nước và vừa qua đã bay thử chuyến đầu tiên. Hoặc tháng 6 vừa qua chúng ta thấy Nhà máy Xơ sợi Đình Vũ ký hợp đồng với 1 doanh nghiệp tư nhân để tiếp tục vận hành và phân phối xơ sợi. Hoặc một ví vụ mới nhất là đã có doanh nghiệp tư nhân đề xuất mua Công ty Gang thép Thái Nguyên đang lỗ vốn trong dự án đầu tư giai đoạn 2 từ vốn ODA của Trung Quốc. Qua đó để thấy không phải chỉ có các doanh nghiệp nhà nước lớn mới có khả năng làm được các công trình có sức hút, tác động lớn tới nền kinh tế.
Như vậy, chúng ta cần xác định vai trò Nhà nước là có trách nhiệm xây dựng thể chế và doanh nghiệp nhà nước có trách nhiệm đi trước mở đường để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân theo sau làm ăn có lãi.
Chúng ta phải có những cơ chế để thu hút vốn của các thành phần kinh tế khác vào các dự án đầu tư đang dang dở để doanh nghiệp tư nhân trực tiếp đầu tư các công trình dự án lớn, các công trình dang dở.
Thực thi công vụ kém tạo điểm nghẽn
Quay trở lại câu chuyện giải ngân vốn đầu tư từ khu vực nhà nước diễn biến chậm chạp, tại sao lại có điểm nghẽn này, thưa ông?
Có thể nói điểm nghẽn này là vấn đề mà Chính phủ đặt ra ngay từ đầu là cải cách thể chế, nâng cao tinh thần trách nhiệm đội ngũ công chức, viên chức trong thực thi công vụ.
Chúng ta thấy sau khi Luật Đầu tư công cũng như Luật Quản lý vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh ra đời, có nhiều ý kiến nói về tác động của các luật này gây ra rào cản hạn chế.
Theo tôi, thứ nhất là phần lớn vướng mắc nằm ở các nghị định, do nghị định không tuân thủ đúng tinh thần của luật, vì vậy nó gây khó cho người thực hiện phía dưới.
Thứ hai, từ trung ương đến địa phương và các bộ ngành chưa có thói quen làm việc theo kế hoạch để đảm bảo cân đối của ngân sách, không phá vỡ ổn định kinh tế vĩ mô.
Ở các nước phát triển như Nhật Bản, Pháp, Đức… việc chi tiêu thuế của dân qua các dự án ODA hay viện trợ không hoàn lại cho các tổ chức Việt Nam được bám rất sát tiến độ theo dự toán. Kể cả khi dự án đã phê duyệt rồi thì cơ quan kiểm tra ngân sách của nước cấp vốn vẫn kiểm tra đến hàng nghìn USD một, nên họ quản lý rất chặt. Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng đội vốn từ ngân sách lên gấp nhiều lần.
Bản thân kỷ cương quản lý, quá trình lập, thẩm định, triển khai các dự án đầu tư công còn tồn tại nhiều bất cập. Tình trạng lập dự án nhỏ, ít vốn để dễ được phê duyệt rồi tìm cách xin tăng vốn không hiếm. Đó là cái bệnh khó chữa của chúng ta.
Thứ ba là bản thân năng lực đội ngũ thực thi pháp luật yếu, không đáp ứng được yêu cầu thay đổi.
Thứ tư là vẫn đặt lợi ích của địa phương lên trên lợi ích quốc gia. Nhiều địa phương vẫn lập luận vì sự phát triển kinh tế của tỉnh tôi, sự tăng trưởng của tỉnh tôi nên phải làm công trình này, mở rộng quy mô dự án kia, mà không tính đến việc cân đối trên tổng vốn ngân sách nhà nước, đẩy nợ công lên cao.
Đánh giá về sự chậm trễ trong giải ngân vốn, nhiều cơ quan vẫn viện dẫn lý do chủ yếu là vướng mắc pháp lý. Ông đánh giá thế nào về quan điểm này?
Cũng có thể là có các khó khăn trong việc xử lý vốn đầu tư như ý kiến của các bộ ngành phụ trách vấn đề này. Nhưng, các cơ quan Quốc hội đã rất thiết tha đề nghị các cơ quan thực thi luật có bản so sánh chỉ rõ ra là vướng ở điều khoản nào, rồi đánh giá tác động đến nay bao nhiêu dự án không triển khai được do luật, bao nhiêu dự án đã triển khai nhưng không giải ngân được vì luật, hay bao nhiêu dự án hoàn thành khối lượng rồi nhưng không giải ngân được, gây ra nợ đọng xây dựng cơ bản và như vậy phải tính ra các công trình dự án chiếm tổng mức đầu tư là bao nhiêu, từ đó sẽ tính được ảnh hướng với nền kinh tế như thế nào.
Nhưng, rất tiếc trước yêu cầu của các cơ quan xây dựng pháp luật, đến thời điểm này các cơ quan của Chính phủ vẫn chưa trình ra được các văn bản như vậy. Cho nên, dự kiến sửa Luật Đầu tư công vào cuối tháng 5 thì đến tháng 3 Chính phủ rút ra, và bây giờ lại dự kiến đưa vào xây dựng luật năm 2019. Do vậy, theo tôi không hẳn là do luật.
Bên cạnh những vướng mắc về hành lang pháp lý, nguyên nhân phần lớn là do nhiều bộ, ngành, địa phương, các chủ đầu tư chưa thực sự quyết liệt đôn đốc tiến độ thực hiện các dự án. Thậm chí, một số bộ, ngành còn có tư duy lấy tiến độ chậm để kiến nghị cho phép rút gọn quy trình thực hiện dự án, trong khi chưa giải trình thích đáng về bảo đảm chất lượng dự án.
Vậy theo ông, nguyên nhân chủ yếu khiến vốn đầu tư của Nhà nước kém phát huy hiệu quả chính là do hạn chế của đội ngũ thực thi công vụ?
Đúng là như vậy.
Có thể kể ra đây sự phối kết hợp của các cơ quan với nhau không tốt. Không chỉ giữa các bộ với nhau mà ngay trong cùng một bộ.
Chẳng hạn, Bộ Công Thương chủ trì đàm phán gia nhập các FTA song và đa phương, trong đó có các cam kết về thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng trong khối. Nhưng cũng là bộ Công Thương cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư rồi với thẩm tra của Bộ Tài chính, chúng ta vẫn ký phê duyệt chủ trương đầu tư Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn mà không tính tới việc thuế xuất khẩu giảm theo lộ trình.
Qua đó, chúng ta thấy sự phối hợp của các cơ quan là không tốt, dẫn đến hậu quả là nền kinh tế nói chung và ngân sách nhà nước nói riêng bị ảnh hưởng.
Còn với ví dụ về đầu tư cơ sở hạ tầng, trong nhiệm kỳ 2011-2016 chúng ta đưa một khối lượng lớn đường giao thông chất lượng tốt vào khai thác phục vụ nền kinh tế, nhưng trong quá trình đó chúng ta cũng có những nhìn nhận vấn đề còn tương đối đơn giản, và khi sự việc xảy ra chúng ta không dũng cảm nhận lỗi mà giải thích vòng vo nên không tạo được sự đồng thuận của dư luận.
Để làm một dự án BOT, doanh nghiệp phải xin ý kiến từ ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, rồi các cơ quan quản lý chuyên ngành… đến khi người dân phản ứng thì ủy ban nhân dân đều nói một câu đó là trách nhiệm của nhiệm kỳ trước.
Đến thời điểm này thành quả huy động, triển khai các dự án đã không được phát huy, việc xử lý các vấn đề nóng trong PPP quá chậm chạp và thiếu trách nhiệm. Cho nên, cả một chủ trương lớn có thể nói đến thời điểm này không triển khai tiếp được nữa.
Chúng ta đang thiếu tầm nhìn chia sẻ rủi ro
Chính phủ vừa đưa ra kế hoạch phát triển cho ngành logistics với một danh mục rất dài các công trình dự án quy mô rất lớn, như đường cao tốc Bắc - Nam; đường sắt Bắc - Nam; khu bến cảng Liên Chiểu; đầu tư luồng Cái Mép - Thị Vải; Cảng hàng không quốc tế Long Thành; mở rộng Cảng hàng không quốc tế Nội Bài; mở rộng Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất... Kế hoạch này liệu có phù hợp trong bối cảnh nguồn lực đất nước rất hạn chế?
Ở đây chúng ta thấy việc đưa ra các danh mục đầu tư để nâng cao dịch vụ logistics là đúng. Nhưng nó sai ở chỗ là giống như bệnh “đeo chuông cổ mèo”. Ý tưởng rất hay nhưng thực hiện thế nào được khi vốn không có! Cho nên, chúng ta phải quay trở lại là làm PPP.
Tuy nhiên, để làm được thì phải có chính sách, nhưng chính sách chúng ta không phù hợp, bằng chứng là cho tới nay không thu hút được nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia. Cho nên phải quay trở lại câu nói của Chính phủ khoá 14, nhiệm vụ trọng tâm là cải cách thể chế, thể chế và thể chế.
Còn đầu tư cái nào trước cái nào sau thì tự nền kinh tế sẽ tính, tự các doanh nghiệp sẽ hiệp thương với nhau để đầu tư. Vấn đề là ban hành thể chế để người ta liên kết với nhau lại, và nhà nước phải bảo đảm điều đó.
Phải nhìn danh mục các công trình dự án để nâng cao hiệu quả hạ tầng của Việt Nam, không phải là các dự án đầu tư riêng lẻ mà đó chính là các điểm để từng bước một đi lên trong thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế.
Và trên cơ sở nhà nước định hướng như vậy thì phải tạo ra cơ chế để huy động các thành phần kinh tế khác vào đầu tư, Nhà nước đưa yêu cầu và doanh nghiệp cân đối để thực hiện, chứ không phải Nhà nước bỏ tiền ra để làm.
Hiện nay, vấn đề là nguồn lực xử lý như thế nào. Tính đến cuối năm 2017, nợ công Việt Nam đã đạt khoảng 61,3% GDP, cách không xa so với mức trần là 65% GDP. Với các kế hoạch đầu tư đầy tham vọng như đã đặt ra, sẽ ảnh hưởng thế nào tới vấn đề nợ quốc gia?
Nợ công cỡ khoảng 62% GDP, như vậy chúng ta vẫn còn dư địa để tăng. Nhưng vấn đề phải hiểu nợ công 65% hay 100%, 200% không quan trọng, mà quan trọng là khả năng trả nợ. Và như vậy, điều phụ thuộc lớn nhất là vào hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Không phải cứ có tiền là làm được mà phải triển khai tiêu tiền như thế nào để đảm bảo hiệu quả. Còn thiếu tiền thì đi vay và rất nhiều người sẵn sàng đóng góp.
Có thể nhà nước phát hành trái phiếu công trình dự án, doanh nghiệp tham gia đấu thầu phát hành trái phiếu doanh nghiệp, Nhà nước phát hành trái phiếu Chính phủ, ngân hàng phát hành trái phiếu ngân hàng để cho vay. Thì chúng ta có rất nhiều khả năng để huy động nguồn lực trong nước.
Nhưng, vấn đề là ai đứng ra chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó!
Chẳng hạn như trong câu chuyện đầu tư BOT, nhà đầu tư bỏ ra 1 đồng thì theo cam kết Nhà nước cũng phải đảm bảo cho họ thu lại 1 đồng và thêm vào đó họ phải có lãi như gửi ngân hàng. Tuy nhiên, chúng ta lại quên mất nguyên tắc đó và nghĩ rằng họ dùng vốn đầu tư đó như vốn ngân sách nhà nước.
Và như vậy, khi thoả thuận với nhà đầu tư, họ chỉ ra cho chúng ta các khoản không đáp ứng được để thực hiện một dự án PPP thì chúng ta mới lại nới rộng ra cho phép họ làm thu phí ở các đoạn khác để bù vào thâm hụt.
Tuy nhiên với cách xử lý tình huống như thế này, các cơ quan nhà nước thực hiện rất thiếu minh bạch, cho thấy công tác truyền thông của một số cơ quan quản lý trong vấn đề đầu tư rất yếu. Vì vậy, vô hình trung đã đẩy chúng ta vào tình thế là triển khai cái gì cũng vướng vì dư luận xã hội không đồng tình.
Và sau đó, chúng ta lại sa vào tranh cãi các thuật ngữ mà không giải quyết được bản chất của sự việc là không chia sẻ rủi ro, lợi nhuận giữa nhà đầu tư làm con đường với doanh nghiệp vận tải và cơ quan quản lý nhà nước được uỷ quyền quản lý.
Còn, chúng ta không thể trách dân được, người ta trả tiền thì phải có yêu cầu.
Chúng ta phải nói rằng niềm tin của doanh nghiệp vào hệ thống công quyền, của người dân vào các cơ quan hành chính nhà nước đang có xu hướng giảm, ngược với sự ổn định và phát triển với tốc độ tương đối khả quan của nền kinh tế. Đó là điều phải đặt ra và suy ngẫm rất nghiêm túc. Nó lại liên quan đến câu thể chế, thể chế và thể chế.
Chúng ta thiếu hẳn tầm nhìn chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước dường như không chịu trách nhiệm về bất cứ rủi ro nào khi xảy ra.
Xin cảm ơn ông!