Cảm hứng từ những mùa lễ hội
Điển hình ở những tác phẩm được đánh giá khá thành công của anh như: Vũ điệu mừng xuân (khắc gỗ-1993), Trung thu ở Hội An (Sơn khắc-1994), Hội An (khắc gỗ-1998), Lễ hội Catu (Lụa-1995), Người Việt Nam (khắc gỗ-2003), Bản sắc miền Trung và Tây Nguyên (Sơn mài-2009), Bài ca xuân 1975 (Sơn dầu-2005), Xây dựng cầu sông Hàn (Sơn mài-2000), Đà Nẵng tháng 3 (Sơn mài-2005)… đều có nội dung, âm hưởng, không gian và nhịp điệu gần gũi không khí lễ hội dân gian miền Trung.
Trong nhà Gươl (Sơn mài) giải thưởng Mỹ thuật khu vực 2010 |
Theo họa sĩ Tường Vinh, các tác phẩm trên đều được tạo ra từ cảm hứng thông qua việc quan sát, tiếp xúc, tìm hiểu, lấy tư liệu từ thực tế. Sau khi tốt nghiệp đại học Mỹ thuật năm 1977, chàng trai quê gốc Hà Nội này đã tình nguyện vào Đà Nẵng công tác tại Khu triển lãm Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) cho đến nay.
Trải qua nhiều công việc như thiết kế mỹ thuật, biên tập nội dung, tổ chức thi công cho các triển lãm và trang trí lễ hội, sân khấu... đôi lúc kiêm luôn việc thuyết minh triển lãm, có lẽ chính vì thế cái chất văn hóa dân gian miền Trung ngấm vào người anh lúc nào không biết. Cũng như phần lớn các họa sĩ, nhà điêu khắc khác, với họa sĩ Tường Vinh, mỗi tác phẩm ra đời đều có những câu chuyện ẩn chứa bên trong, điều đó mới tạo nên cảm xúc để hình thành những tác phẩm đẹp, có ý nghĩa.
Cụ thể, như bức tranh Xây dựng cầu sông Hàn hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm hội nghị Mỹ Đình, Hà Nội có lẽ là bức tranh gắn nhiều kỷ niệm nhất từ trước tới nay đối với anh. Bắt đầu từ ghi chép tư liệu, trăn trở qua năm tháng và sau đó là hoàn thành bức tranh. Hiện nay, anh cũng đang trăn trở cho một bức tranh đang ở giai đoạn phác thảo về phố cổ Hội An. Họa sĩ Tường Vinh kể.
Vào khoảng năm 1978, là lần đầu tiên anh đặt chân đến Hội An trong một chuyến công tác dài ngày. Khung cảnh sông nước, phố cổ, con người và cuộc sống nơi đây đã quyến rũ anh và rồi tình yêu trong anh dành cho nơi này ngày càng lớn dần theo năm tháng. Tình yêu đó đã được biểu hiện qua rất nhiều tác phẩm với nhiều chất liệu như: Lụa, khắc gỗ, giấy dó, sơn dầu, sơn mài với nhiều kích cỡ khác nhau (có tranh chỉ bé bằng bàn tay người lớn).
Đến năm 2009, trong dịp dự lễ khai mạc và nhận giải thưởng tại triển lãm Mỹ thuật chuyên đề về Hội An do thành phố Hội An tổ chức, được xem nhiều tranh của các họa sĩ từ nhiều tỉnh thành tham dự với rất nhiều nội dung và hình thức biểu hiện về Hội An... đã làm nảy sinh trong anh ý tưởng sáng tác về Hội An thời xa xưa.
Bắt đầu từ đó trở đi, anh đã lưu ý đến những tư liệu, bài viết, tìm kiếm những hình ảnh liên quan đến Hội An xưa, một thành phố thương cảng quốc tế lớn của Đằng Trong thời chúa Nguyễn. Cái khó nhất là làm thế nào để tạo ra một tác phẩm đẹp mang hơi thở Hội An thế kỷ 17. Hiện anh đang phác thảo và dự định hoàn thành bức tranh để tham gia triển lãm mỹ thuật Việt Nam cuối năm nay.
Đến nay, sau gần 40 năm cầm cọ “gia tài nghệ thuật” của người họa sĩ này cũng đáng khâm phục. Tác phẩm đầu tay được chọn treo tại triễn lãm Mỹ thuật Thủ đô 1977 và được chọn in trong tập sáng tác mỹ thuật 1979 do Bộ Văn hóa-Thông tin ấn hành có tên: Công trường xây dựng khu Giảng Võ (chất liệu sơn dầu).
Nhiều tác phẩm của anh đã được chọn để trưng bày trong các cuộc triễn lãm Mỹ thuật toàn quốc, khu vực... và ở các nước Nhật (1990), Đức (1992), Hà Lan (1994) và Đan Mạch (1995). Tác phẩm trong sưu tập của Hội mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam và Bảo tàng mỹ thuật Đà Nẵng.
Với tư cách là một trong những họa sĩ đầu đàn của phong trào mỹ thuật Đà Nẵng thế hệ sau 1975 và có nhiều tác phẩm được giới sưu tập đánh giá cao, nhắc về hoạt động mỹ thuật Đà Nẵng giai đoạn hiện nay, anh nêu nhận định: Đà Nẵng cũng như một số thành phố trung tâm lớn khác trong nước như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Huế… đã có một thời bùng nổ cái được gọi là thị trường tranh (người người vẽ tranh, nhà nhà bán tranh).
Nhiều họa sĩ đã sống được bằng việc sáng tác và bán tác phẩm của mình chủ yếu cho khách du lịch nước ngoài hay một số nhà sưu tập nước ngoài quan tâm tới văn hóa, con người Việt Nam. Thời kỳ đó kéo dài khoảng hơn 10 năm kể từ khi nước ta bước vào thời kỳ mở cửa và phát triển kinh tế thị trường.
Thế nhưng, theo họa sĩ Tường Vinh, cả nước hiện nay chưa có một thị trường tranh tượng nghệ thuật thực sự. Mỗi sản phẩm mỹ thuật cũng như sản phẩm của các ngành nghệ thuật khác được sinh ra từ tấm lòng và trái tim của mỗi nghệ sĩ. Nó tồn tại hay không tồn tại, phát triển rực rỡ hay lụi tàn là tùy thuộc ở sự đón nhận của xã hội.
Nói một cách đơn giản: Sản phẩm đã làm ra mà không được quảng bá, không được tiêu thụ, không được gìn giữ thì người làm ra các tác phẩm mỹ thuật sẽ phải chuyển sang làm việc khác để sinh sống.