Cần “máy chém” với giấy phép con
TS. Nguyễn Đình Cung |
Để chấm dứt tình trạng này, theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM), cần có tư duy và cách làm mạnh tay theo kiểu “máy chém”.
Theo ông, căn cứ vào đâu để có thể bãi bỏ các điều kiện kinh doanh mà bộ, ngành, địa phương lạm quyền ban hành?
Trước hết phải nói rằng đây là một loại tư duy quản lý Nhà nước rất cổ hủ, một cách tiếp cận quản lý theo kiểu tôi quản đến đâu mở đến đấy, làm thế nào để ra quy định trong phạm vi mình quản được. Điều này hoàn toàn ngược với tư tưởng tại Luật DN và Luật Đầu tư, là DN được quyền tự do kinh doanh tất cả những gì pháp luật không cấm.
Cách tiếp cận như vậy mâu thuẫn nhau, về mặt thực tiễn nó không phù hợp với kinh tế thị trường là năng động, sáng tạo và đa dạng, không thể áp đặt một phương thức để tất cả mọi người làm theo. Cách tiếp cận như vậy là hành chính, chỉ thuận cho cơ quan Nhà nước, rất cản trở sự phát triển. Nó đã kéo dài rất lâu, điều kiện này áp điều kiện kia, như một đống đất đổ dồn, ngày càng nhiều và không có ai dọn dẹp.
Luật DN trước 2005 đã đặt ra, và thậm chí Nghị định hướng dẫn thi hành Luật DN 1999 cũng đã đề cập, chỉ có cấp Chính phủ trở lên mới được ban hành các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, cũng như các điều kiện kinh doanh. Nhưng trên thực tế thì Thông tư, Quyết định của các bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rất nhiều. Cái dở ở đây là nó đặt ra nhiều điều kiện, mỗi điều kiện như một giấy phép cha, để đảm bảo thì nó phải tuân thủ rất nhiều điều kiện con, điều kiện cháu, quy định trong nhiều văn bản khác nhau, khó hiểu hết và áp dụng cho đúng. Chưa nói những điều kiện này rất vô lý, không thân thiện với thị trường, với DN.
Giờ luật đặt ra rất rõ ràng, sau khi rà soát thấy là có nhiều văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, bởi thông tư của các bộ, các quyết định, chỉ thị của UBND các cấp, đặc biệt UBND các tỉnh thành trực thuộc Trung ương. Theo tôi, những văn bản này đương nhiên bãi bỏ. Đã vượt thẩm quyền thì không thể nào có hiệu lực. Đây là một trong những điều kiện để ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Để cho văn bản có hiệu lực thì nó phải đúng thẩm quyền, nếu không thì không có hiệu lực thi hành.
Tại sao vượt thẩm quyền, nhưng các bộ, địa phương vẫn ban hành nhiều văn bản như vậy, thưa ông?
Có lẽ nguyên nhân vẫn nằm ở tư duy quản lý cần phải đổi mới. Vấn đề là ông bộ trưởng, ông chủ tịch tỉnh cũng thuận theo cách quản lý đó, thấy đó là phù hợp. Tư duy về đổi mới quản lý không nhất quán nên các nhà lãnh đạo, người có trách nhiệm nhiều khi cảm thấy đó là bình thường. Cho nên, điều sâu xa hơn cản trở sự đổi mới là người ta cảm nhận cách thức quản lý hiện nay là phù hợp, là bình thường. Nhưng rõ ràng là nó không phù hợp, không bình thường chút nào, xét trên cả góc độ pháp lý lẫn nhu cầu phát triển.
Cần loại bỏ các quy định trái với Luật DN và Luật Đầu tư |
Vậy để thay đổi, liệu có cần cách làm mạnh tay hơn hiện nay không?
Với thực trạng hiện nay rõ ràng là cần một tư duy, cách làm theo kiểu “máy chém”. Trong cải cách lâu nay, thuật ngữ này không được sử dụng, còn năm 2000-2003 được sử dụng rất phổ biến. Đây là một trong những công cụ hữu hiệu nhất trong cải cách thủ tục hành chính. Chúng ta có thể tuyên bố cắt bỏ một loạt, cắt roẹt toàn bộ các quyết định, thông tư ban hành bởi các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tuyên bố hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7. Đó là thuật ngữ đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới trong cải cách thủ tục hành chính.
Giả sử có việc thi hành mạnh tay như vậy, nhưng điều gì có thể đảm bảo văn bản vượt thẩm quyền không tiếp tục tràn lan?
Sau khi đã cắt xong một loạt điều kiện kinh doanh, nhất thiết phải có cơ chế kiểm soát, thông qua thiết lập một tổ chức tương đối độc lập, liên tục rà soát, kiểm soát, quản chặt việc ban hành các văn bản pháp luật, điều kiện kinh doanh. Giống như một bể nước cần có van khoá để điều tiết lượng nước vào bể. Để cho nước này luôn trong sạch, cần thành lập cơ quan, có thể chế liên tục giám sát đánh giá để ngăn cản những quy định không phù hợp được ban hành.
Hiện nay, chúng ta có cơ quan kiểm soát nhưng theo thông lệ quốc tế, thực tiễn tốt thì chưa đáp ứng. Cơ quan này phải rất có thẩm quyền, năng lực. Nó phải tương đối độc lập, không sợ bất cứ ông bộ trưởng, ông chủ tịch tỉnh nào. Ở các nước đã có nhiều mô hình tương tự như vậy. Phổ biến là cơ quan này dưới quyền của Thủ tướng, lấy thẩm quyền của Thủ tướng để thực thi công vụ…
Theo ông, nếu không có “máy chém” như vừa nêu thì Luật Đầu tư và Luật DN mới ban hành liệu có thất bại với mục tiêu cải cách không?
Đây không chỉ là câu chuyện của Luật Đầu tư và Luật DN. Chúng ta thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền, quản lý bằng luật pháp. Nếu không thay đổi tức là chúng ta quản lý bằng luật pháp nhưng lại với những quy định không phù hợp, trái thẩm quyền. Nếu không thực hiện được thì cải cách lớn nhất, được mong chờ nhất của Luật Đầu tư là quy định chốt cứng về ngành nghề kinh doanh có điều kiện sẽ không thực hiện được. Và lối soạn thảo tiến bộ nhất là “chọn bỏ” (quy định những gì cấm, còn lại thì DN, nhà đầu tư được phép đầu tư, kinh doanh theo quy định của pháp luật - PV) cũng sẽ không thực hiện được.
Xin cảm ơn ông!