Cần tăng quy mô và tiềm lực tài chính
TS.Phan Thanh Hà - Phó vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, quy chế bảo lãnh cho DN vay vốn của NHTM được ban hành lần đầu tiên vào năm 2001 nhưng đến năm 2009, hai Quyết định sửa đổi được ban hành, theo đó Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) được giao thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với DN vay vốn tại các NHTM với nguồn quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh vay vốn là 200 tỷ đồng.
Theo quy chế này thì những DN thuộc các thành phần kinh tế (kể cả hợp tác xã) có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động sẽ được bảo lãnh vay vốn. Quy mô dự án, phương án sản xuất kinh doanh của DN tối thiểu là 100 triệu đồng, không nợ quá hạn tại các TCTD, không nợ thuế; có vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu 10% và sử dụng 100% giá trị tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp bảo đảm bảo lãnh. Số tiền được bảo lãnh tối đa bằng 100% số nợ gốc và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng được ký kết giữa hai bên với mức phí bảo lãnh tối đa bằng 0,5%/năm/số tiền bảo lãnh.
Ảnh: MH
Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc bảo lãnh tín dụng cho DN vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Sở dĩ như vậy theo bà Hà do: Thứ nhất, quy mô của quỹ dự phòng là rất nhỏ bé và đang giảm dần. Sau 3 năm hoạt động quỹ đã chi hết 84% số vốn được cấp ban đầu và mặc dù đã được bổ sung nhưng quy mô hiện nay chưa bằng một nửa số vốn ban đầu.
Thứ hai, mức bảo lãnh tối đa 100% là quá cao, không khuyến khích NHTM cùng chia sẻ rủi ro và do đó là thận trọng hơn trong việc thẩm định và cho vay dự án.
Trong quy chế bảo lãnh cũng không quy định cụ thể các trường hợp bên bảo lãnh có quyền từ chối nghĩa vụ bảo lãnh. Vì vậy, trên thực tế có những trường hợp VDB bị yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh vô điều kiện, kể cả khi bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng về sử dụng vốn. Bên cạnh đó, với mức phí bảo lãnh quy định rất thấp nên VDB có xu hướng bảo lãnh cho các dự án lớn hơn là các dự án của DNNVV. Đối với DN thì phí bảo lãnh làm tăng thêm chi phí. Ngoài ra, thủ tục xin cấp chứng thư bảo lãnh không kém phần phức tạp so với vay tín dụng ngân hàng.
Trước thực tế này, bà Hà đề xuất, cần bổ sung tiềm lực tài chính cho quỹ dự phòng và sửa đổi quy chế. Bên cạnh việc tạo hành lang pháp lý để các bên trong quan hệ bảo lãnh có điều kiện minh bạch trong tổ chức thực hiện. Đồng thời cần có cơ chế để thúc đẩy phát triển các quỹ bảo lãnh tín dụng cả về quy mô, chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của các khoản vay ngắn hạn phục vụ sản xuất kinh doanh của các DNNVV.
Về phía các DNNVV, cần nâng cao năng lực quản trị kinh doanh, quản trị tài chính, nâng cao tính tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động.
Linh Nguyễn