Cập kênh nguồn tài chính cho giáo dục
Khơi nguồn cảm hứng khởi nghiệp từ học sinh, sinh viên | |
Giáo dục mở: Mô hình cần khuyến khích phát triển | |
Xã hội hóa đầu tư hạ tầng ngành giáo dục |
Dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) đang đồng loạt được nhiều trường học tổ chức hội thảo để thu thập các ý kiến đóng góp từ các chuyên gia, cán bộ và giảng viên. Câu chuyện phân bổ nguồn lực ngân sách và xã hội hóa giáo dục vì thế ngay trong những ngày đầu năm mới 2019 cũng đã nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận.
Các cơ sở đào tạo cần xem mức học phí và mức chi trả cho giảng viên là lợi thế cạnh tranh |
Nguồn chi xé lẻ và khó xác định
PGS.TS. Nguyễn Văn Vân (Khoa Luật Thương mại, Đại học Luật TP.HCM) cho rằng, mặc dù Dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) đã có bước tiến bộ là thiết kế hẳn một chương mới quy định về chế độ tài chính, tài sản và ưu đãi đầu tư trong giáo dục. Tuy nhiên, những điều luật này khi được ban hành và đi vào thực tiễn dự báo sẽ khó áp dụng vì vấp phải những chồng chéo, khống chế từ các văn bản luật khác liên quan như: Luật Phí và lệ phí, Luật Kế toán, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước…
Theo TS. Vân, hiện nay ngân sách chi cho giáo dục đào tạo được Quốc hội quy định “đảm bảo đạt tỷ lệ 20% tổng chi ngân sách Nhà nước hàng năm” (theo Nghị quyết số 37/2004/NQ-QH11 – PV), tuy nhiên vì không tách bạch rạch ròi giữa “chi đầu tư phát triển” và “chi thường xuyên” nên phần chi thường xuyên cho giáo dục – đào tạo chỉ khoảng 14-15% tổng chi ngân sách. Việc mập mờ nguồn chi dẫn tới các phương án xác định tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục không thống nhất cả trong dự toán lẫn quyết toán.
Đồng quan điểm, PSG.TS. Hoàng Thị Thuý Nguyệt (Học viện Tài chính quốc gia) phân tích kỹ hơn, mặc dù nguồn chi ngân sách cho giáo dục đã được quy định từ năm 2004 là tối thiểu 20% nguồn chi ngân sách, nhưng thực tế nguồn tiền luôn bị xé lẻ và thiếu hụt so với nhu cầu. Chẳng hạn, ở bậc giáo dục đại học, mỗi năm nguồn chi đạt khoảng 10% tổng chi ngân sách (số liệu năm 2016) nhưng nếu trừ đi phần hỗ trợ học phí thì tỷ lệ các trường nhận về chỉ đạt khoảng 4%. Bên cạnh đó, TS. Nguyệt cho rằng cơ chế chi ngân sách cho giáo dục đại học chứa đựng nhiều bất cập. Nguồn lực cơ chế vốn ít ỏi lại bị phân tán mạnh mẽ vào các bộ chủ quản và các địa phương dẫn tới việc tiếp nhận ngân sách rất khó khăn.
Thừa nhận thực tế này, ông Nguyễn Trường Giang - Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính) cũng cho rằng, hiện nay có quá nhiều bên liên quan tham gia vào quá trình phân bổ ngân sách cho các trường đại học. Điều này một mặt làm phức tạp quá trình cấp ngân sách, mặt khác làm cho quản lý tài chính giáo dục đại học bị manh mún, gây ra trì trệ. Ngay cả khi nguồn ngân sách cho giáo dục đại học được quy định tăng 5-10% mỗi năm thì với cơ chế phân bổ đầu tư này cũng không tạo động lực cho các trường trong việc nâng cao chất lượng đào tạo các ngành cần nhiều chi phí, mặc dù xã hội có nhu cầu cao.
Phân bổ vốn theo đặt hàng đào tạo
Theo ông Nguyễn Trường Giang, với khuôn khổ cơ chế chi ngân sách cho giáo dục – đào tạo như hiện nay, nếu các nhà quản lý vẫn giữ tư duy ngân sách là nguồn tài trợ chủ yếu thì giáo dục đại học nói riêng và các cấp độ đào tạo nói chung sẽ rất khó phát triển. Vì vậy cần thay đổi phương thức phân bổ ngân sách theo hướng Nhà nước đặt hàng đào tạo theo nhu cầu. Theo đó, các cơ quan quản lý (bộ, ngành, địa phương) đặt ra các yêu cầu chuẩn mực về tiêu chuẩn chất lượng quốc gia, bắt buộc các cơ sở đào tạo cam kết thực hiện khi tiếp nhận nguồn ngân sách.
PGS.TS. Hoàng Thị Thúy Nguyệt cũng khuyến nghị Nhà nước cần tái cơ cấu các kênh tài trợ thông qua việc thiết lập một tổ chức tài trợ hợp nhất. Bởi theo lộ trình tự chủ tài chính của các cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học, mức học phí sẽ được điều chỉnh tăng dần. Khi đó Nhà nước phải thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng giao nhiệm vụ cho các trường để đào tạo những ngành nghề mà xã hội có nhu cầu nhưng có ít khả năng thu hút người học. Trường nào đáp ứng được “đặt hàng” thì được rót ngân sách đầu tư. Lúc đó sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các trường để nhận được nguồn chi từ ngân sách Nhà nước.
Đồng tình quan điểm này nhưng ở góc độ thị trường giáo dục, bà Diệp Phương Chi (Đại học Sư phạm kỹ thuật TP.HCM) cho rằng, việc thúc đẩy tự chủ tài chính ở các trường đại học cần đi liền với tự chủ và tự do về học thuật. Vì nếu không rõ ràng trong khái niệm tự chủ tài chính thì khi triển khai trên thực tế sẽ dễ xảy ra các trường hợp “bình mới rượu cũ” – tức là trường học dù mang vỏ bọc là tự chủ tài chính nhưng vẫn sử dụng nguồn cơ sở vật chất trước đó đã được ngân sách đầu tư mà không cải thiện, không thay đổi giáo trình và phương pháp giảng dạy. Từ đó tạo ra bất công cho người học vì phải chịu mức học phí cao hơn nhưng chất lượng đào tạo không cải tiến.
Trong khi đó, đứng từ phía người dạy, Th.S Bùi Ngọc Hiền (Học viện Cán bộ TP.HCM) cho rằng khi minh bạch cơ chế chi ngân sách và trao quyền tự chủ tài chính cho các trường thì các cơ sở đào tạo cũng cần được tự chủ trong việc thỏa thuận mức lương với giáo viên, giảng viên. Theo đó, cần có cơ chế khuyến khích các cơ sở giáo dục chủ động tăng các nguồn thu sự nghiệp để tăng thu nhập của nhà giáo. Nguồn ngân sách chỉ nên tập trung chi trả lương cứng và các phụ cấp cơ bản. Các thu nhập khác có được từ việc kinh doanh giáo dục cần được các trường chủ động chi trả cho giáo viên, giảng viên và xem đó như lợi thế cạnh tranh giữa các trường với nhau.