Chậm gỡ rào, thiếu lực đẩy
Tiếp vốn cho chuyển giao công nghệ | |
DN Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu | |
Thương hiệu là tài sản có giá trị lớn |
Vào thời điểm này cách đây 1 năm, câu chuyện về mục tiêu cả nước có 1 triệu DN hoạt động vào năm 2020 đã được đưa ra bàn thảo với nhiều băn khoăn về tính khả thi. Tới nay, sau 1 năm, bức tranh DN không mấy tươi sáng đang tiếp tục làm dấy lên lo ngại rằng mục tiêu này sẽ khó thành hiện thực. Nhìn lại 5 tháng đầu năm, tình hình phát triển DN càng khiến nhận định này trở nên rõ hơn. Trong cả 5 tháng đầu năm nay, số DN đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng tới 24%; số DN hoàn tất thủ tục giải thể tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước.
Ảnh minh họa |
Nhìn lại 2 năm vừa qua, thực tế cũng cho thấy mặc dù đã có Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020, song tình hình thành lập và hoạt động của DN vẫn không khả quan. Năm 2016, số DN thành lập mới đã vượt mốc 110.000 DN và đến năm 2017, kỷ lục này tiếp tục được phá vỡ với con số đạt gần 128.000 DN. Tuy nhiên, điều đáng nói là mặc dù số DN thành lập mới tăng cao, song trong năm 2017 vừa qua, số DN thực sự trụ lại trong nền kinh tế chỉ tăng 56.000 DN so với cùng kỳ năm 2016. Tính đến hết năm này, tổng số DN hoạt động chỉ đạt 561.000 DN, mới bằng khoảng 53% so với mục tiêu hướng tới vào năm 2020.
Theo các chuyên gia, mỗi năm, số lượng DN thành lập mới rất cao, nhưng số lượng DN giải thể, phá sản cũng nhiều, dẫn đến mục tiêu có 1 triệu DN hoạt động vào năm 2020 là rất khó khăn.
Đó cũng là băn khoăn của bà Phạm Thị Thu Hằng, Viện trưởng Viện phát triển DN, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Bà Hằng cho rằng, để đạt mục tiêu đến năm 2020 có 1 triệu DN hoạt động hiệu quả như Nghị quyết 35 của Chính phủ đề ra, trung bình mỗi năm cần khoảng gần 150.000 DN mới và phải là DN sống được, thể hiện ở việc phải phát sinh thuế thu nhập DN. Song thực tế lại cho thấy có đến gần 60% DN không phát sinh thuế thu nhập DN. Cùng với đó, tốc độ thành lập DN mới trong các tháng đầu năm đang chậm lại, trong khi số DN phá sản, ngừng hoạt động vẫn nhiều lên và số phá sản gần bằng số DN mới ra đời. Điều đó cho thấy rằng, các DN Việt Nam vẫn chưa thực sự cải thiện được hiệu quả hoạt động của mình.
Báo cáo đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên năm 2017 của Đại học Kinh tế quốc dân đã chỉ ra thực trạng trong 3 khu vực DN, thì các DN tư nhân và DN FDI có tỷ lệ thua lỗ cao hơn hẳn so với DNNN. Con số hơn 48% DN thuộc khu vực tư nhân thua lỗ, so với hơn 16% DN thuộc khu vực nhà nước, đã phản ánh rõ nét những khó khăn rất lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Điều này cho thấy, mặc dù đã có những kết quả đáng khích lệ về số lượng DN hay gia tăng quy mô vốn nhưng kết quả sản xuất kinh doanh của các DN chưa được cải thiện.
Báo cáo cũng chỉ ra các rào cản đối với sự phát triển của DN, trong đó tập trung vào các yếu tố sản xuất và thực hiện nghĩa vụ thuế, phí hải quan với nhà nước. Cụ thể, đối với rào cản từ các yếu tố sản xuất, chi phí sử dụng lao động trong các DN Việt Nam có xu hướng tăng nhẹ trong thời gian qua. Tỷ trọng của chi phí cho bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp và kinh phí công đoàn có xu hướng tăng đáng kể. Cùng với đó là rào cản gia tăng chi phí cơ sở hạ tầng logistics. Khảo sát cho thấy, tỷ lệ các DN đánh giá chi phí cơ sở hạ tầng logistics cao và rất cao khá lớn (trung bình gần 40% đối với tất cả các loại phí).
Cùng với các yếu tố đầu vào sản xuất, chi phí thực hiện nghĩa vụ với nhà nước của DN cũng đang trở thành một rào cản cho sự phát triển. Khảo sát thực tế đối với DN cho thấy, chỉ có 38,5% DN báo cáo phải bỏ ra dưới 10% thời gian trong 1 tháng để xử lý các vấn đề liên quan đến thuế và hải quan; trong khi vẫn còn đến 19% DN phản ánh phải bỏ ra trên 30% thời gian cho vấn đề này. Đó là chưa kể thủ tục hành chính phức tạp khiến DN phải lót tay cho cán bộ thuế và hải quan.
Thực tế này cho thấy, từ nay đến năm 2020 nếu không thúc đẩy mạnh mẽ cải cách môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi tối đa để DN đầu tư kinh doanh hiệu quả, thì mục tiêu cả nước có 1 triệu DN sẽ ngày càng khó khăn hơn.
TS. Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng việc cải cách hiện nay quá chậm. Với tốc độ như vậy, quy mô và phạm vi cải cách còn cách xa so với kỳ vọng, mới đang ở giai đoạn xoá bỏ các rào cản mà chưa tính tới yếu tố thúc đẩy phát triển. Ông Hiếu đặt vấn đề, tính thích nghi của chính sách còn rất chậm, thể hiện ở vụ việc điển hình là từ khi Uber đến và đi, chúng ta vẫn loay hoay với việc hoạch định chính sách để quản lý loại hình kinh doanh này. Rõ ràng, trong khi chưa tháo gỡ được rào cản phát triển, chúng ta lại đồng thời thiếu đi các lực đẩy trên môi trường đầu tư để tạo cơ sở cho khối DN tư nhân thực sự lớn mạnh.