Chi phí của ưu đãi
Việc rộng tay ưu đãi thuế, từ đó cắt giảm nguồn thu không nhỏ cho ngân sách, liệu có tương xứng với kết quả nhận lại từ thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút vốn FDI? Đó là câu hỏi lớn được đặt ra từ kết quả khảo sát được Liên minh Minh bạch ngân sách (BTAP) công bố mới đây.
Ông Ngô Quang Thuận, Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính cho biết, các hình thức ưu đãi thuế được sử dụng ở Việt Nam hiện nay rất đa dạng. Đó là ưu đãi về thuế suất; ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế; hỗ trợ đầu tư; giảm trực tiếp nghĩa vụ thuế phải nộp; miễn, giảm thuế nhập khẩu hay thuế gián thu; khấu hao nhanh; ưu đãi cho các đặc khu (khu kinh tế, khu chế xuất…).
Ngoài ra còn một số chính sách tuy không mang tính dài hạn song cũng gián tiếp tạo ra ưu đãi, như cơ chế bù lỗ giá, hoặc khi kinh tế trong nước gặp khó khăn, Chính phủ có chính sách giãn nợ thuế…
Ông Thuận lý giải, cũng như nhiều nước đang phát triển, Việt Nam có nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, khung pháp lý, chất lượng nguồn nhân lực… do đó phải áp dụng các chính sách ưu đãi thuế để bù đắp thiếu hụt về lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư.
Ảnh minh họa |
Thực tế cũng cho thấy, việc áp dụng rộng rãi và mạnh mẽ ưu đãi thuế cùng với các chính sách khuyến khích đầu tư khác đã góp phần tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế. Tuy nhiên ở một giác độ khác, BTAP cảnh báo, ưu đãi thuế cũng đặt ra nhiều vấn đề như làm giảm thu ngân sách, gây méo mó trong phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế và làm phức tạp hệ thống chính sách thuế.
Trước hết, việc lạm dụng ưu đãi thuế để thu hút đầu tư khiến các chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam còn dàn trải, manh mún, chưa có chính sách trọng tâm trọng điểm. Trong nhiều trường hợp, việc quy định rải rác cũng dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau.
Có quan điểm cho rằng chính sách còn ưu đãi cả những hộ kinh doanh nhỏ hay các dự án đầu tư không đáng để ưu đãi. Cũng vì chính sách dàn trải, manh mún, đã dẫn tới chi phí quản lý, chi phí tuân thủ cao, dẫn tới tiêu cực, cơ chế xin cho trong quản lý thuế…
Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi thuế hiện nay được quy định rải rác ở nhiều văn bản luật, quản lý bởi nhiều các cơ quan khác nhau… Thậm chí các văn bản quy định khác ngoài thuế như Luật Khoa học công nghệ… cũng quy định về ưu đãi thuế.
Một vấn đề khác là chính sách ưu đãi thuế tại Việt Nam còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội như ưu đãi với DN sử dụng nhiều lao động nữ, hay ưu đãi cho DN sử dụng lao động thiểu số… “Chúng tôi cho rằng những yếu tố lồng ghép này làm giảm tính trung lập, đơn giản của chính sách thuế, khiến chi phí quản lý, tuân thủ thuế tăng lên”, ông Ngô Quang Thuận khuyến cáo.
Hiện nay chính sách ưu đãi thuế đang có xu hướng tập trung cho các dự án đầu tư có quy mô lớn. Thực tế này khiến DN Việt Nam luôn lo ngại rằng đối tượng hưởng lợi lớn hơn lại chính là DN FDI do khối này luôn chiếm ưu thế về quy mô vốn đầu tư. Bên cạnh đó, BTAP cũng cho rằng, ưu đãi thuế giúp thu hút FDI, đặc biệt là các dự án quy mô lớn trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, tổ chức này nhấn mạnh rằng tỷ trọng vốn đầu tư của khối DN nước ngoài hiện tập trung phần lớn vào các lĩnh vực mang lại lợi nhuận ngắn hạn và kém lan toả, cụ thể là trong lĩnh vực chế biến chế tạo, xây dựng… trong khi đó lĩnh vực nông nghiệp thì vẫn còn rất khiêm tốn.
Một tác động gián tiếp khác được BTAP chỉ ra là ưu đãi thuế tràn lan dẫn tới giảm thu ngân sách, từ đó kéo theo giảm chi đối với dịch vụ công. Điều này tác động tới quyền thụ hưởng dịch vụ công của các đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, chủ yếu là phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số…
Tóm lại, tổ chức này khuyến cáo, cần sớm có thống kê về số giảm thu ngân sách do miễn giảm thuế nhằm thu hút đầu tư gây ra. Đây sẽ là căn cứ quan trọng để thiết kế lại hệ thống ưu đãi thuế phù hợp hơn.