Chia sẻ chi phí đầu tư
Trong bối cảnh Việt Nam từng bước hội nhập, việc duy trì một suất đầu tư quá thấp cho bậc giáo dục đại học sẽ khiến cho năng lực cạnh tranh của hệ thống trường đại học tại Việt Nam giảm đi. Từ đó, một mặt các trường đại học trong nước sẽ khó khăn hơn khi cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, mỗi năm Việt Nam sẽ mất đi hàng tỷ USD bởi trào lưu du học tự túc ngày càng phát triển mạnh.
Ảnh minh họa |
Để hạn chế tình trạng “chảy máu ngoại tệ”, “chảy máu chất xám” thông qua con đường du học, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục và đầu tư - tài chính cho rằng, Việt Nam cần mạnh dạn áp dụng các giải pháp chia sẻ chi phí đầu tư. Trong đó việc cân đối 3 nguồn vốn (bao gồm: vốn ngân sách, vốn người học đóng góp và vốn xã hội hóa) trong suất đầu tư giáo dục đại học cần được làm rõ về tỷ lệ.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, vào năm 2009 mức chi từ ngân sách Nhà nước bình quân cho một sinh viên đại học công lập ước khoảng 7,14 triệu đồng/năm.
GS. Phạm Phụ tính toán rằng, nếu mức học phí một sinh viên trung bình là 2,4 triệu đồng/năm thì mức chi phí đơn vị (CPĐV) ở đại học công lập tại Việt Nam thời điểm năm 2009 mỗi sinh viên khoảng 500-550 USD/năm. Mức này là quá thấp so với bình quân chung của khu vực và thế giới. Bởi vào thời điểm năm 2004-2005 mức chi phí này tại Mỹ đã là 22.000 USD; tại Đài Loan là 7.000 USD và tại các nước châu Âu là 12.000 USD.
Giải thích kỹ hơn về cách tính mức CPĐV trong giáo dục đại học, GS. Phạm Phụ cho rằng, theo nguyên tắc “giáo dục so sánh”, các nước có thu nhập bình quân đầu người càng cao thì tỷ lệ CPĐV/GDP đầu người càng thấp. Tại Việt Nam tỷ lệ phù hợp giữa CPĐV/GDP đầu người là khoảng 120-150%. Điều này có nghĩa rằng, năm 2009 GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 1.160 USD/người/năm thì mức CPĐV đầu tư cho giáo dục đại học đáng ra phải đạt khoảng gần 1.400 USD, chứ không phải 500-550 USD như thực tế đã diễn ra.
Theo thống kê, hiện nay tại Việt Nam ngân sách vẫn đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong CPĐV đầu tư giáo dục đại học. Bình quân tỷ lệ đóng góp của ngân sách vào CPĐV là 55%. Trong khi đó phần đóng góp từ người học là 42% và huy động xã hội hóa khoảng 3%.
GS. Phạm Phụ cho rằng mức đóng góp của ngân sách vào CPĐV như trên của Việt Nam là khá cao so với khu vực và thế giới. Bởi cùng thời điểm này thì các nước như Indonesia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ mức đóng góp từ ngân sách quốc gia vào CPĐV đầu tư giáo dục đại học chỉ xoay quanh mức 23-40%, còn lại là phần đóng góp của người học và vốn xã hội hóa.
Như vậy, hiện nay đầu tư vào giáo dục đại học của Việt Nam vấp phải nghịch lý là tỷ lệ đóng góp của ngân sách quá lớn vào CPĐV nhưng bản thân CPĐV lại quá nhỏ so với mức bình quân của thế giới.
Nếu giữ nguyên tỷ lệ vốn ngân sách trên 50% trong CPĐV mà lại phải tăng CPĐV lên mức 120 - 150% GDP đầu người thì mỗi năm ngân sách phải đầu tư thêm gấp đôi vào giáo dục đại học. Điều này là khó khả thi bởi tỷ lệ ngân sách dành cho giáo dục hiện nay đã đạt đến con số 20% và khó có thể tăng thêm.
Chính vì vậy, theo GS. Phạm Phụ, Chính phủ cần áp dụng biện pháp chia sẻ chi phí. Theo đó cần mở rộng cơ chế khuyến khích phát triển các đại học tư thục, nâng tỷ lệ sinh viên ở nhóm đại học này lên mức 30-40%. Khi đó lượng vốn ngân sách chỉ còn tập trung vào khoảng 60-70% sinh viên ở các trường công lập. Mức đầu tư sẽ vẫn được giữ nguyên nhưng tỷ lệ đóng góp vào CPĐV chung của cả nước sẽ giảm xuống khoảng 25 - 35% như ở nhiều nước của châu Á.
Trong khi đó, ở khía cạnh huy động vốn xã hội hóa, GS. Phụ cho rằng, hiện tỷ lệ đóng góp của xã hội mới chỉ chiếm khoảng 3-4% tổng CPĐV. Vì vậy, Chính phủ cần tiếp tục các chính sách miễn thuế cho, tặng đối với giáo dục đại học, hoàn thiện pháp lý về xây dựng vốn cho, tặng ở các cơ sở giáo dục đại học… làm sao để tỷ lệ vốn xã hội hóa đạt khoảng 15-20% trong tổng CPĐV là hợp lý và có thể tạo ra sức cạnh tranh cho đại học trong nước.