Chính sách hướng tới đa mục tiêu
Sửa đổi, bổ sung hướng dẫn thực hiện chính sách tín dụng phát triển thủy sản | |
Triển khai thực hiện chính sách tín dụng mới về nông nghiệp, nông thôn |
Tín dụng cho BĐS: Siết có lộ trình
Những ồn ào xung quanh dự thảo sửa đổi, bổ sung Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (NHNNg), cũng như những đồn đoán về việc nên cho các DN xuất khẩu tiếp tục được vay ngoại tệ khi trước đó Thông tư 24/2015/TT-NHNN dừng cho vay ngoại tệ đối tượng này từ ngày 1/4/2016 đã được NHNN chốt lại bằng hai thông tư quan trọng. Đó là Thông tư 06/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36 /2014/TT-NHNN và Thông tư 07/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN.
Điều chỉnh tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn như Thông tư 06 là quyết định hợp lý |
Trong đó Thông tư 06 quy định về sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn tại các NHTM vẫn được giữ nguyên 60% từ nay đến 31/12/2016, rồi giảm dần qua các năm. Cụ thể, tỷ lệ tối đa đối với các NHTM, chi nhánh NHNNg, Ngân hàng Hợp tác xã vẫn là 60%. Duy chỉ có TCTD phi ngân hàng, tỷ lệ này được điều chỉnh giảm từ 200% xuống còn 100%. Tuy nhiên, từ ngày 1/1/2017, tỷ lệ tối đa sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của NHTM, chi nhánh NHNNg, Ngân hàng Hợp tác xã giảm xuống còn 50%, TCTD phi ngân hàng giảm xuống còn 90%; Và từ 1/1/2018 tỷ lệ này chỉ còn 40% và 80%.
Chia sẻ với phóng viên, Tổng giám đốc một NHTMCP cho biết, việc tỷ lệ vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn giữ nguyên đến hết năm nay và giảm dần theo từng năm sẽ tạo điều kiện cho các NHTM dành nhiều nguồn vốn hơn cho vay nền kinh tế, đồng thời giảm được chi phí vốn để đưa lãi suất ở mức hợp lý, hỗ trợ DN. Đặc biệt, điều này cũng phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển DN, khi Chính phủ giao ngành NH duy trì mặt bằng lãi suất thị trường ở mức hợp lý, hỗ trợ DN, nhất là DNNVV tiếp cận vốn tín dụng…
Điểm đáng chú ý nữa là nếu như dự thảo sửa đổi Thông tư mà NHNN đưa ra lấy ý kiến, hệ số rủi ro đối với các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản từ 150% vọt luôn lên 250%, thì Thông tư 06 vừa ban hành quy định đến hết năm 2016, hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay này vẫn là 150% như quy định hiện hành; và từ 1/1/2017 hệ số rủi ro sẽ được nâng lên 200%. Đề xuất chỉ nên nâng ở mức 200% này từng được một số chuyên gia NH “hiến kế”.
Theo TS. Cấn Văn Lực, BĐS là một lĩnh vực bắt đầu có những dấu hiệu có thể rủi ro do tăng trưởng khá nóng, nhưng việc kiểm soát cũng phải theo lộ trình, để tránh sốc cho thị trường BĐS. Còn TS. Nguyễn Trí Hiếu – Chuyên gia NH cho rằng điều chỉnh tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay cho vay trung dài hạn như Thông tư 06 là quyết định hợp lý. “Điều này cũng giúp các NH có nhiều vốn hơn cho vay nền kinh tế, nhất là khi GDP đang tăng thấp hơn so với cùng kỳ năm trước, thì tới đây nguồn vốn NH sẽ góp phần hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng.” – TS. Nguyễn Trí Hiếu nhận định.
Về việc hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay BĐS chỉ tăng từ 150% lên 200%, theo TS. Nguyễn Trí Hiếu lộ trình như vậy nó sẽ bổ trợ cho kinh doanh BĐS. Điều này cho thấy, NHNN đã có tính toán cẩn trọng, vừa tiếp tục hỗ trợ vốn cho BĐS mới hồi phục, vừa đảm bảo tác động siết tín dụng BĐS nhưng siết ở mức vừa phải. Tuy nhiên, ông Hiếu đề xuất, tùy vào tình hình thực tế, hệ số rủi ro này có thể điều chỉnh kéo lên 250% từ 1/1/2018 thì sẽ tạo sự đồng bộ hơn về mặt lộ trình, đồng thời đảm bảo an toàn hơn đối với lĩnh vực cho vay này.
Tiền tệ tiếp tục bổ trợ cho tài khóa
Các chuyên gia, cũng như giới NH đều đồng tình với một điểm sửa đổi đáng chú ý nữa của Thông tư 06 là tỷ lệ mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ (TPCP) so với nguồn vốn ngắn hạn tối đa đối với các NHTM Nhà nước lên 25% thay vì mức 15% như quy định hiện hành. Đặc biệt các chi nhánh NHNNg được mua, đầu tư trái phiếu chính phủ tối đa tới 35% nguồn vốn ngắn hạn, thay vì mức 15% như trước đây.
Một chuyên gia NH phân tích: Về tính thanh khoản, TPCP được ví gần ngang bằng với tiền mặt, nên sẽ giúp các NH giữ được thanh khoản tốt hơn trong thời gian tới. Ngoài ra, khi các NHTM đầu tư vào TPCP cũng hỗ trợ cho Chính phủ có nguồn để thực hiện các dự án công hoặc cơ cấu lại nợ. “Có thể thấy, chính sách tiền tệ đang hỗ trợ chính sách tài khóa khi tiếp tục nới cho các NHTM mua TPCP.” – một chuyên gia nói.
Một quyết định cũng được cho là phù hợp khi các DN xuất khẩu được trở lại vay vốn bằng ngoại tệ, sau khi cơ chế đã khép lại từ ngày 1/4/2016 vừa qua. Theo đó, Thông tư 07 sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 3 Thông tư số 24/2015/TT-NHNN với cho vay ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn ở trong nước nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay.
Tuy vậy, phải kèm theo điều kiện, khi được TCTD giải ngân vốn cho vay, khách hàng vay phải bán số ngoại tệ đó cho TCTD cho vay theo hình thức giao dịch hối đoái giao ngay (spot), trừ trường hợp nhu cầu vay vốn của khách hàng để thực hiện giao dịch thanh toán mà pháp luật quy định đồng tiền giao dịch phải bằng ngoại tệ. Quy định này được thực hiện đến hết ngày 31/12/2016.
Đánh giá cao việc NHNN cho đối tượng DN xuất khẩu được trở lại vay vốn bằng ngoại tệ, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, trong bối cảnh các DN của nước ngoài được hưởng lãi suất cho vay rất thấp thì việc DN trong nước, nhất là DN hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được vay ngoại tệ trở lại sẽ tạo động lực cho các DN trong nước, nâng cao sức cạnh tranh cho họ, để đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, mang ngoại tệ về cho đất nước, góp phần giúp tăng trưởng GDP đạt mục tiêu.
Tuy vậy, các chuyên gia cho rằng, bất cứ chính sách nào cũng có hệ lụy. Đơn cử như việc khi cho DN xuất khẩu được vay vốn bằng ngoại tệ có thể phải chịu “tác động phụ” là lại làm cho nhu cầu ngoại tệ tăng lên vào những tháng cuối năm. Do đó, phía NHNN cũng phải lường đoán các kịch bản để điều hành chính sách tỷ giá, lãi suất hợp lý, đảm bảo mục tiêu vừa kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng.