Chủ động vốn chuyển đổi công nghệ
HTX Nông nghiệp tổng hợp Anh Đào đang hoạt động khá thuận lợi với mô hình trồng rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGap của mình. Hiện tại, rau của HTX Anh Đào không chỉ bán tại nhiều siêu thị mà còn xuất khẩu với số lượng lớn đi một số nước. Hàng năm, ngoài việc khai thác 18 ha rau của các xã viên, HTX này còn là đầu mối thu mua, tiêu thụ từ 10 -12 ngàn tấn rau củ các loại, tổng doanh thu trên dưới 40 tỷ đồng cho bà con trong khu vực.
Giá trị gia tăng của nông sản còn thấp |
Tuy nhiên, sản xuất, kinh doanh rau là một nghề đặc thù, bởi rất nhiều loại rau “sáng tươi, trưa héo, chiều đổ đi”. Giá trị gia tăng trong sản phẩm còn thấp, đòi hỏi HTX phải tìm tòi, sáng tạo, áp dụng khoa học công nghệ (KHCN) ngay từ khâu xuống giống, chăm sóc, tưới tiêu… đến khi đưa đến tay người dùng.
Ông Nguyễn Công Thừa, Chủ nhiệm HTX Anh Đào cho biết, khâu bảo quản, chế biến sau thu hoạch là một trong những điểm yếu của các DN sản xuất, chế biến nông - lâm - thủy sản hiện nay. Để nâng cao giá trị thành phẩm, tạo được uy tín thương hiệu, cạnh tranh tại thị trường trong nước và quốc tế đòi hỏi các DN thường xuyên nghiên cứu những quy trình công nghệ mới nhằm giúp sản phẩm bảo quản được lâu, tươi sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm… Tuy nhiên, phần lớn các DN hiện nay quy mô còn nhỏ lẻ, vốn liếng và năng lực hạn chế nên không phải DN nào cũng có được sự đầu tư bài bản, nhất là vấn đề nghiên cứu áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Tương tự, giám đốc một nhà máy chuyên sản xuất, chế biến các loại trái cây sấy khô xuất khẩu tại Nhà Bè, TP. Hồ Chí Minh chia sẻ, hiện kim ngạch xuất khẩu của công ty đạt 200.000 USD/năm. Tuy nhiên, cái khó nhất của DN hiện nay là không có đủ nguồn lực để đầu tư thêm máy móc thiết bị mới, đáp ứng nhu cầu nâng cao về mặt sản lượng và chất lượng theo yêu cầu bạn hàng. Nên hiện tại, công ty vẫn phải tiếp tục duy trì sản xuất với những gì đang có trong tay.
Theo Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh, trình độ áp dụng KHCN vào sản xuất kinh doanh hiện nay của các DN còn khá hạn chế. Phần lớn trình độ công nghệ của các DN chỉ mới đạt mức trung bình, nếu không muốn nói là lạc hậu, đặc biệt là các DN trong lĩnh vực cơ khí, dệt may, chế biến nông thủy sản… Do đó, sản phẩm làm ra không chỉ thiếu sức cạnh tranh mà giá trị thu về cho chính DN cũng không cao như mong đợi.
Mới đây, để thúc đẩy áp dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm trong nước, Chính phủ đã thành lập Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia với tổng vốn 1.000 tỷ đồng. Quỹ này hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có chức năng cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh để vay vốn, hỗ trợ vốn cho các tổ chức, cá nhân và DN thực hiện nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện công nghệ.
Vốn của Quỹ do ngân sách Nhà nước (NSNN) về hoạt động KHCN cấp và được cấp vốn bổ sung hàng năm để đạt tổng mức vốn điều lệ. Ngoài ra, Quỹ còn huy động từ các nguồn vốn khác như các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước, lãi cho vay từ các dự án…
Theo phản ánh của một số DN, nhu cầu vay vốn để chuyển đổi KHCN từ nguồn quỹ, TCTD là có thực. Song do những tiêu chí cho vay chuyển đổi công nghệ còn khá bất cập, từ việc yêu cầu hợp đồng sản phẩm đến thời gian hoàn trả vốn quá ngắn. Có chương trình hỗ trợ vốn vay quá thấp, khoảng 20 - 30% kinh phí, nhưng phải thu hồi đến 70% vốn sau khi thương mại hóa sản phẩm. Đó là chưa nói đến các khâu lập dự án, thuyết minh nhu cầu vay vốn đúng mục đích, chứng nhận của sở ngành…
Chính vì thế, hiện nay số DN tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi từ quỹ này còn rất hạn chế. Thậm chí, nhiều DN còn không hề biết đến nguồn quỹ chuyển đổi KHCN này đã được thành lập và có thể hỗ trợ cho mục đích, nghiên cứu, đổi mới công nghệ của DN. Hay có biết đến thì cũng đành “tặc lưỡi’ tìm nguồn khác sao cho thuận lợi, dễ dàng hơn.
TS. Nguyễn Bách Phúc, Chủ tịch Hội Tư vấn KHCN và Quản lý TP. Hồ Chí Minh cho rằng, đổi mới KHCN là động lực phát triển không chỉ đối với DN nói riêng mà còn là nền tảng thúc đẩy đối với nền kinh tế đất nước. Nguồn vốn 1.000 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước trong bối cảnh hiện nay còn nhiều hạn chế, song nếu Nhà nước tạo cơ chế thuận lợi trong quá trình triển khai để các tổ chức nghiên cứu, các DN có nhu cầu chuyển đổi công nghệ tiếp cận một cách thuận lợi, dễ dàng thì mục tiêu mới có thể đạt được.
Bên cạnh đó, các DN cũng cần chủ động thành lập các quỹ phát triển KHCN để hỗ trợ chính DN mình, tạo ra nguồn quỹ chuyển đổi ngay từ địa phương. Bởi nếu mỗi DN tích cực, chủ động “góp gió thành bão” sẽ tạo ra một nguồn vốn đối ứng với nguồn quỹ đổi mới KHCN từ ngân sách Nhà nước, thay vì trông chờ và kêu khó thì hiệu quả của chính sách và nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài mới phát huy tác dụng.