Chưa quan tâm đúng mức chứng chỉ bền vững
Ảnh minh họa |
Mặc dù Việt Nam đã tiếp cận việc quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng theo thông lệ quốc tế từ khá sớm, tuy nhiên việc triển khai cấp chứng chỉ, nhất là cho rừng trồng cao su còn chậm. Các DN vẫn chưa đẩy mạnh triển khai trồng rừng theo hướng này.
Ông Trương Minh Trung, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam thừa nhận, tập đoàn có khoảng 420 ngàn ha rừng trồng cao su (trong đó 300 ngàn ha trong nước và 120 ngàn ha ở nước ngoài) nhưng hiện vẫn chưa có chứng nhận quản lý rừng bền vững (FSC).
Mặc dù vậy, tập đoàn nhận thức rõ tầm quan trọng của chứng chỉ với rừng cao su nên đang hợp tác với Hiệp hội Cao su và đang tìm đơn vị tư vấn để cuối năm nay hoặc trong năm 2018 sẽ có rừng trồng đạt chứng chỉ FSC. Bởi, theo ông Trung đây là xu hướng chung toàn cầu và muốn phát triển lâu dài bền vững thì buộc phải đáp ứng tiêu chuẩn của thế giới.
Ông Võ Hoàng An, Phó chủ tịch Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA) cho biết, với diện tích các vườn cây cao su thanh lý đang gia tăng trong thời gian gần đây, gỗ cao su ngày càng đóng góp vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng của ngành gỗ, sản phẩm gỗ, góp phần giảm áp lực nhập khẩu và gia tăng kim ngạch xuất khẩu cho ngành gỗ Việt cũng như ngành cao su Việt Nam.
Theo các số liệu của VRA, trong năm 2016, gỗ cao su đã đóng góp khoảng 31,7% vào tổng giá trị xuất khẩu 4,85 tỷ USD của toàn ngành, giúp tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành cao su tăng 16,4% so với 2015.
Hiện nay, xu hướng chuyển sang sử dụng sản phẩm từ rừng có nguồn gốc hợp pháp hoặc có chứng nhận FSC trên thị trường thế giới ngày càng gia tăng trong bối cảnh các nước đang nỗ lực chống lại sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Vì vậy, chứng chỉ rừng được xem là công cụ để thiết lập quản lý rừng bền vững, đảm bảo đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, môi trường, xã hội.
Song trên thực tế, diện tích được cấp chứng chỉ đến nay mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với tổng diện tích rừng Việt Nam đang có, trong khi mục tiêu đến năm 2020 phải có 30% diện tích rừng sản xuất được cấp chứng chỉ rừng. Riêng với ngành cao su, có một phần diện tích là rừng trồng, việc áp dụng chứng chỉ đã được các DN lớn quan tâm thực hiện nhưng đến nay vẫn gặp nhiều khó khăn đối với việc đảm bảo đáp ứng các tiêu chí của chứng chỉ trong thời gian dài.
Theo phân tích của một số chuyên gia, nhu cầu đối với chứng chỉ FSC trong ngành gỗ xuất khẩu đang ngày càng gia tăng vì đây là sản phẩm có liên quan đến môi trường, việc trồng cao su có thể là tác nhân chuyển đổi rừng tự nhiên hay rừng tự nhiên nghèo qua trồng cao su. Vì vậy, đối với gỗ cao su thì DN đều phải có chứng chỉ trồng rừng, cũng như buộc phải mua nguyên liệu từ vùng trồng có chứng chỉ.
Liên quan đến vấn đề này, bà Vũ Quế Anh, Điều phối viên FSC tại Việt Nam - cho biết, Việt Nam có hơn 200.000 ha được cấp chứng chỉ FSC với khoảng 538 DN có chứng chỉ FSC, song với rừng trồng cao su thì vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân do nhận thức của DN và chủ rừng chưa cao. Các cơ quan quản lý cũng chưa làm rốt ráo vấn đề này.
Ngoài ra, còn phải kể đến việc hiện tại các nhà nhập khẩu nguyên liệu chưa có yêu cầu cụ thể về chứng chỉ FSC, nên sản phẩm sản xuất ra dù chưa có chứng nhận nhưng vẫn tiêu thụ được. Hay việc đầu tư để đáp ứng các yêu cầu của chứng chỉ FSC đòi hỏi chi phí cao, các DN e ngại việc đội chi phí giá thành...
Mặc dù vậy, thời gian tới DN phải chú trọng hơn đến vấn đề này, bởi đây là xu hướng tất yếu trên toàn cầu. Muốn tiêu thụ được hết sản lượng và phát triển lâu dài, bền vững hơn, chắc chắn DN Việt không thể đi một mình một hướng.
Ông Lê Thiện Đức, chuyên gia về lĩnh vực này cho rằng, hiện nay thế giới đang rất quan tâm đến tình trạng suy giảm đối với diện tích, chất lượng rừng, gây ảnh hưởng lớn đến môi trường tự nhiên và khả năng cung cấp sản phẩm từ rừng. Xu hướng chuyển sang sử dụng sản phẩm từ rừng có nguồn gốc hợp pháp hoặc có chứng nhận quản lý bền vững trên thị trường thế giới ngày càng gia tăng.
Đối với hệ thống chứng chỉ rừng hiện nay, FSC có độ tin cậy cao và là tấm vé mở ra thị trường xuất khẩu rộng hơn đối với DN xuất khẩu gỗ và sản phẩm cao su Việt Nam. Đây cũng là điều kiện đảm bảo cho DN sản xuất gỗ khi xuất khẩu sẽ được gắn nhãn mác và buộc phải có chứng chỉ này mới có thể truy xuất nguồn gốc hợp pháp của gỗ khi cần.