Cơ hội hay thách thức?
Suốt 2-3 năm gần đây, những thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế dồn dập xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Dệt may với vị thế là một trong những ngành xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam, được cho là đang đứng trước cả hai áp lực: có tận dụng được cơ hội đang đến và có vượt qua được những thách thức mà các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã kết thúc đàm phán hoặc đang đến hồi kết thúc đặt ra?
Đổi mới mô hình quản trị tập đoàn để có thể tạo ra một sản phẩm riêng mang dấu ấn của tập đoàn |
Thách thức ở khâu phụ trợ
Đối với FTA Việt Nam - Hàn Quốc và Việt Nam - Liên minh Hải quan Nga, Belarus và Kazakhstan, nguyên tắc để được ưu đãi là “cắt - may”. Theo đó, hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường đang bị áp thuế trung bình 8-10% sẽ được cắt giảm xuống 5% và nhiều mặt hàng sẽ chịu thuế suất bằng 0% nếu đảm bảo các điều kiện theo cam kết tại hiệp định.
Trong khi đó, FTA Việt Nam - EU lại áp dụng nguyên tắc “từ vải trở đi” để xác định nguồn gốc xuất xứ hàng hoá - căn cứ quan trọng để xác định mức ưu đãi thuế. Và có lẽ, khó khăn nhất là các quy định của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với nguyên tắc “từ sợi trở đi”, nhưng lại có nhiều lợi thế trong giảm thuế suất vì kim ngạch lớn, mức thuế đang chịu cao (có mặt hàng lên tới 32%).
Nhìn tổng thể các ưu đãi và điều kiện đi kèm nêu trên có thể thấy, các cơ hội to lớn mở ra cho ngành dệt may khi hội nhập kinh tế quốc tế là: có cơ hội tăng lợi nhuận biên do giảm thuế; có quy mô xuất khẩu lớn hơn nữa và phát triển thị trường mới; có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; đổi mới, nâng cao năng lực quản trị và trách nhiệm của DN…
Nhưng bên cạnh cơ hội, các thách thức lớn đặt ra với ngành dệt may Việt Nam có thể kể ra là: sức ép cạnh tranh lớn với ngay các DN FDI; thiếu hụt lao động có trình độ cao; năng suất lao động thấp; tỷ lệ nội địa hóa thấp do công nghiệp phụ trợ chậm phát triển; không có chiến lược phát triển ngành gắn với vùng lãnh thổ; thể chế kinh tế, chế tài thực thi chưa đồng bộ.
Kinh nghiệm quốc tế trong hội nhập kinh tế đều chỉ ra rằng, một quốc gia, hay một DN dù lớn đến đâu trong điều kiện tương đương với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn hiện nay nếu muốn phát triển nhanh, bền vững thì phải hình thành song song ngành công nghiệp chính và công nghiệp hỗ trợ. Trong đó, ngành công nghiệp chính phải dựa vào một DN có sản phẩm công nghiệp cuối cùng có uy tín, có thị trường, có công nghệ tiên tiến và đủ vốn đầu tư.
Với đặc thù là quốc gia đang phát triển, Việt Nam thiếu vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ thì nhìn riêng ngành dệt may chúng ta khó có điều kiện đưa vào thị trường một sản phẩm mới có khả năng đem lại lợi nhuận cao cho quốc gia, hay nhỏ hơn là DN sản xuất ra một sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh (ví dụ như một chiếc áo sơ-mi). Trong 30 năm đổi mới, các DN dệt may Việt Nam đã tiến hành gia công sản phẩm, tức là sản xuất và cung cấp ra thị trường các sản phẩm dưới thương hiệu của công ty nước ngoài và sử dụng mạng lưới phân phối của công ty nước ngoài, được gọi là phương thức OEM (Original Equipment Manufacturing).
Thử tìm một lối đi
Đến nay, bối cảnh đã có nhiều thay đổi cả về điều kiện bên ngoài: có các FTA với nhiều nước, các DN trong ngành dệt may đã có kinh nghiệm và đối tác tin cậy khi thực hiện mô hình OEM thì mục tiêu đặt ra phải là dần tiến tới chủ động trong một khâu của chuỗi giá trị của sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh để có những sản phẩm độc đáo, có sức thu hút các công ty đa quốc gia, tạo được thế mới trong thương lượng giá để hai bên cùng có lợi theo mô hình ODM (Own Design Manufacturing).
Như vậy, vấn đề đặt ra trong tái cơ cấu Tập đoàn Dệt may không phải thoái vốn để thay đổi chủ sở hữu của DN mà là đổi mới mô hình quản trị tập đoàn để có thể tạo ra một sản phẩm riêng mang dấu ấn của tập đoàn. Tập đoàn phải vươn lên làm chủ khâu nghiên cứu thị trường để có những thiết kế phù hợp yêu cầu, từ đó sản xuất ra sản phẩm mới với công nghệ sản xuất phù hợp. Tập đoàn chú trọng quản lý sản xuất sản phẩm theo chuỗi để tối ưu hoá chi phí, giảm giá thành sản phẩm.
Vấn đề đặt ra ở đây là về chủ trương phát triển DN Việt Nam, trong điều kiện hội nhập sâu rộng như hiện nay, chúng ta cần tập trung phát triển DN đầu tàu không phân biệt sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân hay chúng ta ưu tiên phát triển DN nhỏ và vừa?
Theo quan điểm của người viết thì Việt Nam cần đầu tư tập trung phát triển 3-5 DN lớn trong lĩnh vực dệt may để ngay từ năm 2016 đủ sức sản xuất theo phương thức ODM. Nhằm để đạt được mục tiêu này cần dành riêng một nguồn vốn từ Quỹ cổ phần hóa DNNN để cho các DN lớn này vay, với lãi suất tương đương ở các nước thị trường chủ lực xuất khẩu, đầu tư các cụm công nghiệp dệt may phù hợp cam kết “từ sợi trở đi” hay “từ vải trở đi”.
Nhà nước sẽ có các chính sách ưu đãi đầu tư cho các thành phần kinh tế khác trong lĩnh vực dệt may tương đương với ưu đãi mà các DN FDI trong ngành đang được hưởng. Chỉ có như vậy chúng ta mới có đủ vốn đầu tư cho công nghệ tiên tiến ở khâu then chốt và tạo được khoảng trống cho thu hút vốn đầu tư ngoài Nhà nước vào công nghiệp hỗ trợ để tham gia chuỗi giá trị theo phương thức OEM.
Nếu thực hiện theo đề xuất trên cần có một đầu mối chịu trách nhiệm và cá nhân có đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề đặt ra. Như vậy áp lực việc làm cho khu vực nông thôn, áp lực tăng dân số cơ học đối với các thành phố lớn cũng như nhiều vấn đề xã hội bức xúc khác sẽ được giải tỏa. Đó chính là con đường công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn theo phương châm “ly nông bất ly hương” mà các nước con rồng châu Á đã thực hiện thành công.
TS. Nguyễn Đức Kiên
Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Quốc hội