Cơ hội lớn nhưng thách thức cũng không nhỏ
TS. Võ Trí Thành |
Mặc dù quá trình đàm phán vẫn chưa kết thúc, nhưng theo đánh giá của TS. Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng CIEM, nếu Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), GDP có thể tăng thêm 36 tỷ USD tương ứng 10,5% vào năm 2025 so với kịch bản nếu không tham gia TPP. Với nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi chúng ta phải mở cửa mạnh hơn lĩnh vực tài chính.
Trao đổi với phóng viên Thời báo Ngân hàng, TS Võ Trí Thành cho biết, thời gian qua mức độ hội nhập của hệ thống NH Việt Nam cũng khá cao, gắn liền với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO như tạo điều kiện cho các NH nước ngoài mở chi nhánh 100% vốn tại Việt Nam.
Điều đó thể hiện rõ qua sự hiện diện của các chi nhánh, NH nước ngoài ngày càng nhiều hơn. Các sản phẩm tài chính NH không ngừng được cải tiến, phát triển theo hướng hiện đại, chú trọng đầu tư công nghệ cao… Đây cũng được coi như “cú hích” về cạnh tranh để các NH Việt Nam đi lên trong thời gian qua.
Vậy theo ông đâu là cơ hội cũng như thách thức đối với hệ thống NH nếu Việt Nam tham gia TPP?
Cũng như khi gia nhập WTO, tham gia vào TPP sẽ tiếp tục thúc đẩy đồng thời tạo sức ép cạnh tranh đối với các NH Việt Nam, phải không ngừng phát triển để bắt kịp với sự thay đổi mạnh mẽ của chính sách. Thị trường sẽ sàng lọc và những NH nào quản trị tốt, năng lực cạnh tranh cao sẽ tồn tại, phát triển mạnh và ngược lại. Ngoài ra, dòng vốn từ nhiều nước thành viên TPP có trình độ phát triển cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản… có thể giúp các NH Việt Nam học hỏi kinh nghiệm, nhất là mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ, kỹ năng quản lý, quản trị NH. Việc thực thi cam kết về cải cách sẽ tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch và cạnh tranh. Qua đó gia tăng sức hấp dẫn các NĐT tham gia vào thị trường tài chính NH.
Thế nhưng khó khăn, thách thức khi tham gia TPP đối với hệ thống NH cũng tương đối nhiều, không chỉ các NH mà cả cơ quan quản lý là NHNN. Bởi vì lĩnh vực tài chính là lĩnh vực rất phức tạp, các công cụ tài chính mới ngày càng sáng tạo, tinh vi. Nếu không giám sát được tốt, rất dễ gây rủi ro đối với sự an toàn của hệ thống là. Đấy là đứng về góc độ quản lý của NHNN. Còn các cơ quan giám sát khác, rủi ro cũng có thể phát sinh khi mà Việt Nam tiếp tục mở cửa gắn với sự dịch chuyển vốn, tài sản vốn.
Thách thức nữa là trình độ quản trị NH của các nước phát triển cao, nguồn lực lại lớn, trong khi đó hệ thống NH vẫn chưa hoàn tất quá trình tái cấu trúc. Nên các NH Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh trong thời điểm này. Chưa kể, hiện độ mở cửa tài chính tại TPP còn cao hơn so với Hiệp định kinh tế mà Việt Nam tham gia trước đó như WTO. Ngay cả một số chuyên gia nước ngoài họ cũng có phần lo ngại. Vì cách tiếp cận trong TPP theo hình thức chọn bỏ. Với cách chọn bỏ này các NH lại càng khó hình dung hết được những hoạt động kinh doanh tài chính khi tham gia TPP. Vì sẽ có nhiều công cụ tài chính mới, sáng tạo ra đời mà với nền tảng tài chính như hiện nay, các NH Việt Nam rất khó thích nghi được.
Cụ thể đâu là vấn đề khó khăn nhất đối với NH, thưa ông?
Thách thức lớn nhất đối với các NH Việt Nam hiện nay chính là vấn đề nền tảng quản trị. Việc tạo dựng một nền tảng về quản trị, nhất là quản trị rủi ro đáp ứng những thông lệ, chuẩn mực quốc tế… có ý nghĩa rất quan trọng đối với các NH. Thời điểm này, tuy quản trị rủi ro của hệ thống NH cũng đã được cải thiện nhưng còn phải học hỏi rất nhiều kinh nghiệm từ các nước trên thế giới mới đảm bảo giám sát tốt, giữ an toàn hệ thống.
Tôi hiểu rằng, hệ thống NH Việt Nam đang rất tích cực cải thiện sức cạnh tranh, năng lực tài chính qua hoạt động tái cấu trúc hệ thống NH ngày càng lành mạnh, đáp ứng thông lệ quốc tế tốt hơn nhất là quản trị NH. Nhưng để có sự chuẩn bị kịp thời, đầy đủ hơn khi chính thức nhập cuộc TPP thì theo tôi, đòi hỏi hệ thống NH phải có những nỗ lực mạnh, quyết liệt hơn nữa và thậm chí có thể là phải đi nhanh hơn một chút.
Xin cảm ơn ông!