Có thể vay ODA Nhật Bản tới 2030
Xây dựng ngưỡng an toàn vay ODA giai đoạn 2016-2020 | |
Đề xuất vay ODA Nhật Bản đầu tư thêm 2 tuyến metro | |
Hoàn trả vốn vay ODA của Nhật không sử dụng hết cho JICA |
Ông Fujita Yasuo |
“Nhật Bản khẳng định sẽ tiếp tục cung cấp nguồn vốn vay ưu đãi cho Việt Nam tới năm 2030, dù Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình thấp dù nhiều nhà tài trợ đã đánh tiếng sẽ giảm dần vốn vay ưu đãi”, ông Fujita Yasuo, Trưởng đại diện JICA Việt Nam nói với phóng viên Thời báo Ngân hàng.
Có nguồn tin nói rằng kể từ tháng 7/2017, Việt Nam có thể không còn được vay theo điều kiện ưu đãi ODA từ đa số các nhà tài trợ, mà phải tiến tới vay thương mại, phải không thưa ông?
Vốn vay ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam hiện nay có lãi suất dao động từ 0,1-1,4%/năm; thời gian trả nợ từ 25-40 năm; thời gian ân hạn là 7-10 năm. Các điều khoản và điều kiện vay vốn ưu đãi của Nhật Bản được thiết lập dựa trên mức thu nhập của nước tiếp nhận. Hiện tại, Việt Nam đã được xếp vào nước có mức thu nhập trung bình thấp. Nhưng với tình hình tăng trưởng kinh tế hiện nay của Việt Nam, JICA sẽ tiếp tục cung cấp vốn vay ưu đãi cho Việt Nam tới khoảng năm 2030.
Nhà ga T2 Nội Bài có tổng vốn đầu tư 76.100 triệu Yên, trong đó vốn vay ODA Nhật Bản là 59.300 triệu Yên |
Như vậy, mặc dù từ tháng 7/2017 Việt Nam có thể không còn được vay ODA ưu đãi từ các tổ chức quốc tế khác, nhưng mức ưu đãi của vốn vay ODA Nhật Bản sẽ chỉ giảm một chút, nếu Việt Nam được nâng bậc vào nhóm các quốc gia có thu nhập cao hơn hiện nay, tức là mức thu nhập trung bình.
Vậy, Nhật Bản sẽ tiếp tục hỗ trợ tài chính cho Việt Nam trong những lĩnh vực nào?
Chính phủ Việt Nam đang ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng, ví dụ như đường sá, sân bay, các nhà máy điện… để có thể tăng cường phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống của người dân và nâng cao khả năng cạnh tranh của đất nước. Để đồng hành cùng chính sách này, Nhật Bản sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua viện trợ phát triển chính thức ODA, cả về hỗ trợ tài chính và hợp tác kỹ thuật. Thực tế cho thấy, hỗ trợ của Nhật Bản trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Như vậy ODA của Nhật Bản chỉ hướng vào lĩnh vực hạ tầng, hay còn những lĩnh vực khác?
Và với đặc điểm nổi bật của vốn ODA Nhật Bản là sự kết hợp giữa hai hình thức hợp tác: hợp tác kỹ thuật (phần mềm) và vốn vay (phần cứng), thì bên cạnh cơ sở hạ tầng, ODA Nhật Bản còn đang hỗ trợ chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực cho cán bộ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, giáo dục, y tế, môi trường… Các hỗ trợ đó đã góp phần không nhỏ trong nâng cao đời sống của người dân, trong đó có yếu tố then chốt giúp các chương trình, dự án được triển khai hiệu quả và bền vững ngay cả sau khi kết thúc.
Có chuyên gia kinh tế cho rằng, chi phí đầu tư cho một dự án ODA mà đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng là rất cao, nên với lãi suất thấp và kỳ hạn dài chưa hẳn đã có lợi. Ông có ý kiến gì?
Cho đến nay, Chính phủ Nhật Bản luôn cung cấp ODA cho Việt Nam có cân nhắc kỹ về sự cần thiết và đóng góp hiệu quả của dự án vào phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Việc sử dụng vốn vay ODA Nhật Bản này cũng đã được đánh giá cao do những đóng góp trong cải thiện môi trường đầu tư tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội
Tôi xin đưa ra một số ví dụ cho thấy chi phí đầu tư của dự án sử dụng vốn vay ODA của Nhật Bản thấp hơn rất nhiều so với chi phí đầu tư của dự án sử dụng trái phiếu Chính phủ của Việt Nam. Ví dụ như dự án nhà ga T2 Nội Bài có tổng mức là 76.100 triệu Yên, trong đó vốn vay ODA là 59.300 triệu Yên. Với lãi suất vay vốn chỉ là 0,1%/năm, thời hạn vay 40 năm kể cả thời gian ân hạn 10 năm, tổng lượng hoàn trả theo vốn vay ODA của dự án này là 60.800 triệu Yên. Nhưng nếu đầu tư dự án theo nguồn vốn trái phiếu Chính phủ với lãi suất 5%, thời gian hoàn trả trong 30 năm và không có thời gian ân hạn, tổng số tiền phải trả là 148.300 triệu Yên.
Có thể thấy rõ nếu đầu tư bằng trái phiếu Chính phủ thì chi phí cao gấp 2,4 lần đầu tư bằng ODA.
Các ưu đãi về lãi suất thấp, thời gian vay dài, ân hạn nhiều năm… của vốn ODA Nhật Bản liệu có đi kèm những điều kiện ràng buộc, do các nhà thầu Nhật Bản thực hiện?
Các điều khoản của vốn vay ODA Nhật Bản là ưu đãi, với lãi suất cho vay thấp và thời hạn trả nợ dài… Tuy nhiên, không phải lúc nào các điều kiện ràng buộc cũng được áp dụng kèm theo, và cũng do đó, nhà thầu không bắt buộc mang quốc tịch Nhật Bản trong mọi dự án vay vốn ODA Nhật Bản.
Trước hết tôi muốn nhấn mạnh rằng, Nhật Bản tôn trọng quyết định của nước nhận viện trợ về việc có áp dụng các khoản vay kèm các điều khoản ràng buộc hay không.
Vốn vay ODA Nhật Bản ràng buộc được gọi là “Điều khoản đặc biệt dành cho Đối tác kinh tế” (STEP). Hình thức này áp dụng cho các dự án cần tận dụng một cách đáng kể công nghệ và bí quyết kỹ thuật của Nhật Bản, dựa trên yêu cầu của nước nhận viện trợ về việc sử dụng và chuyển giao các công nghệ vượt trội của Nhật Bản. Điều kiện chính của khoản vay STEP là nhà thầu chính sẽ là các công ty Nhật Bản hoặc là liên doanh giữa công ty Nhật và công ty Việt Nam, do công ty Nhật đứng đầu liên doanh; và không dưới 30% hàng hóa sẽ có xuất xứ từ Nhật Bản.
Trong tổng số vốn vay đã cam kết từ năm 2010-2014, tỷ trọng của các khoản vay STEP chỉ vào khoảng 38% và 62% số vốn vay, còn lại được cung cấp mà không có bất kỳ hạn chế gì về quốc tịch nhà thầu hay nguồn gốc xuất xứ hàng hóa.
Trong mọi trường hợp, các DN Việt Nam hoàn toàn có thể tham gia thực hiện dự án vay vốn ODA Nhật Bản. Với những dự án vốn vay không có điều kiện ràng buộc, các DN Việt Nam có thể tham gia đấu thầu và thực hiện hợp đồng với tư cách là nhà thầu chính và/hoặc nhà thầu phụ. Với các dự án áp dụng hình thức STEP, các DN Việt Nam vẫn có thể tham gia thực hiện hợp đồng với tư cách là thành viên của liên doanh Việt Nam-Nhật Bản và/hoặc nhà thầu phụ.
Vậy có những nhà thầu Việt Nam nào đã và đang thực hiện các gói thầu ODA từ Nhật Bản, thưa ông?
Theo số liệu thống kê của JICA từ năm 2010 đến tháng 5/2015, số lượng các nhà thầu Việt Nam cũng như giá trị hợp đồng mà các nhà thầu Việt Nam nhận được khi tham gia vào thực hiện các dự án vốn vay ODA Nhật Bản tại Việt Nam liên tục tăng qua từng năm. Giá trị các hợp đồng được thực hiện bởi các DN Việt Nam trong khuôn khổ các dự án vốn vay ODA Nhật Bản từ 31,2 tỷ Yên năm 2010 tăng lên 73,5 tỷ Yên trong năm 2014…
Một số nhà thầu tham gia với tần suất lớn vào các dự án vay vốn ODA Nhật Bản trong thời gian này có thể kể đến như CIENCO 4 (15 hợp đồng), Công ty xây dựng Thăng Long (11 hợp đồng), CIENCO 1 và CIENCO 8 (11 hợp đồng), CIENCO 6 (7 hợp đồng), Công ty Xây dựng Trường Sơn (6 hợp đồng), Tổng công ty 319 (5 hợp đồng)…
Xin cảm ơn ông!