Cốt lõi nhất vẫn là từ bản thân DN
TS.Trần Thị Hồng Hạnh |
Đảng, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều văn bản chỉ đạo, nhiều cơ chế chính sách đã được ban hành và đi vào thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý cho việc tiếp cận vốn của DNNVV. Còn đối với các TCTD thì sao, thưa bà?
Nhận thức được tầm quan trọng của đối tượng khách hàng là các DNNVV đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh NH nói riêng, nhiều TCTD đã xây dựng chính sách khách hàng riêng để cho vay các DNNVV.
Các sản phẩm dịch vụ đi kèm với hoạt động tín dụng đối với các DNNVV ngày càng đa dạng, tiện ích như hoạt động cho vay thấu chi qua tài khoản, thực hiện bảo lãnh, thanh toán quốc tế, bao thanh toán, tư vấn đầu tư, tài trợ xuất nhập khẩu… đã góp phần tạo lòng tin và mối quan hệ gắn bó giữa NH và các DNNVV.
Quy trình, thủ tục cấp tín dụng đối với DNNVV ngày càng đơn giản, phù hợp tạo điều kiện cho DN được tiếp cận vốn dễ dàng, đồng thời, các TCTD còn chủ động tư vấn và liên kết các DNNVV với nhau để tạo ra một chu kỳ sản xuất kinh doanh theo chuỗi và vay vốn khép kín từ khâu sản xuất - thu mua - chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Để tạo điều kiện cho các DN tiếp cận vốn tín dụng NH, ngành NH đã triển khai chương trình kết nối NH – DN trên tất cả 63 tỉnh, thành phố của cả nước với hơn 370 hội nghị đối thoại, tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho khách hàng. Tính đến cuối tháng 5/2015 tổng số tiền các NH đã cam kết hỗ trợ cho các DN theo chương trình đạt hơn 328.000 tỷ đồng.
Số lượng DNNVV được các TCTD cho vay ngày một tăng lên mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, nhiều DNNVV hoạt động cầm chừng, thu hẹp, thậm chí ngừng hoạt động, hàng tồn kho tăng, tỷ suất lợi nhuận ngày một giảm. Hiện nay, có khoảng 180.000 DNNVV đang có quan hệ tín dụng đối với TCTD.
Nhưng các DN vẫn nói rằng tiếp cận tín dụng khá khó khăn? Theo bà, vì đâu?
NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo hướng tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn của DNNVV.
Các TCTD rất quan tâm và coi khu vực các DNNVV như là một thị trường tiềm năng lớn cho thị trường đầu ra của vốn.
Các TCTD đã nhận thấy những khó khăn của DNNVV là vấn đề thiếu vốn để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng thấy rõ tiềm năng mà nhóm khách hàng này mang lại. Những giải pháp khả thi để DNNVV tiếp cận tín dụng NH không những để hỗ trợ vốn cho DNNVV còn mang lại lợi ích lâu dài cho chính NH.
Tuy nhiên, vấn đề tiếp cận tín dụng NH vẫn là một thách thức không nhỏ đối với nhiều DNNVV. Tín dụng chưa được khai thông theo mong muốn của cả hai phía đi vay và cho vay. DNNVV còn nhiều hạn chế về nguồn vốn, trình độ kỹ thuật công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và rất khó cạnh tranh trên thị trường.
DN phải chủ động nâng cao năng lực quản trị, trình độ khoa học công nghệ |
Với những hạn chế cơ bản đó, DNNVV rất dễ bị tổn thương, thêm vào đó nhiều DN, nhất là các DN nhỏ và siêu nhỏ có tình hình tài chính không minh bạch, không có chiến lược kinh doanh và không biết lập kế hoạch sản xuất kinh doanh… nên khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay NH.
Quy mô vốn đối ứng thấp do khả năng vốn chủ sở hữu thấp. Kế hoạch và chiến lược sản xuất kinh doanh thiếu cụ thể do: mang tính tự phát, nặng tính chất gia đình, chủ yếu theo phong trào. Sản phẩm chưa tạo nên sự khác biệt, thiếu tính cạnh tranh.
Nhưng nguyên nhân cơ bản là ở những khiếm khuyết của DN như báo cáo tài chính không đáp ứng yêu cầu theo quy định; Hóa đơn chứng từ không minh bạch. Sử dụng vốn sai mục đích: Việc sử dụng vốn không đúng mục đích (sử dụng vốn ngắn hạn sang dài hạn và ngược lại) làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán vì những chỉ tiêu về khả năng thanh toán là một trong những chỉ tiêu được TCTD cho vay quan tâm để chắc chắn rằng vốn vay có được DN sử dụng đúng mục đích hay không và DN có khả năng thanh toán các món nợ khi đến hạn.
Bên cạnh đó, với DN sự am hiểu về pháp lý còn hạn chế, trình độ nhân lực thấp, công nghệ lạc hậu. Đại đa số DNNVV kinh doanh có tính chất ngắn hạn, thương vụ. Khả năng tiếp thị và tìm kiếm thị trường còn rất yếu.
Hóa đơn chứng từ không minh bạch. Quy mô vốn đối ứng thấp do khả năng vốn chủ sở hữu thấp. Kế hoạch và chiến lược sản xuất kinh doanh thiếu cụ thể do: mang tính tự phát, nặng tính chất gia đình, chủ yếu theo phong trào. Sản phẩm chưa tạo nên sự khác biệt, thiếu tính cạnh tranh. Sự am hiểu về pháp lý còn hạn chế, trình độ nhân lực thấp, công nghệ lạc hậu.
Đại đa số DNNVV kinh doanh có tính chất ngắn hạn, thương vụ. Khả năng tiếp thị và tìm kiếm thị trường còn rất yếu.
Vậy phải làm gì để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho DN, hỗ trợ DN đủ năng lực để cạnh tranh khi nền kinh tế hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới từ đó tăng khả năng tiếp cận vốn cho DN?
Để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho DN, Hiệp hội NH Việt Nam có một số kiến nghị, đề xuất đối với Chính phủ: Có các chính sách thúc đẩy Quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV và Quỹ Bảo lãnh tín dụng hoạt động hiệu quả hơn (bổ sung nguồn vốn, hỗ trợ tài chính cho các Quỹ hỗ trợ phát triển DN…;). Sử dụng đòn bẩy tài chính (chính sách thuế) để khuyến khích các DN tích tụ, tập trung vốn, sử dụng vốn có hiệu quả.
Đối với Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, cần có chính sách đẩy mạnh hoạt động của các Quỹ Bảo lãnh cho DNNVV tại một số địa phương như hỗ trợ nguồn vốn cho quỹ hoạt động. Có chính sách, chương trình kích cầu để hỗ trợ DN bán hàng, giúp DN phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó cải thiện tình hình tài chính. Đơn giản hóa thủ tục hành chính tại địa phương, cải thiện môi trường pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm thời gian cho DN.
Các Hiệp hội DN tăng cường hỗ trợ DN tìm kiếm khách hàng mới, mở rộng thị trường, tiếp cận các nguồn vốn, tìm hiểu pháp lý, nắm bắt thông tin, làm cầu nối cho DN giúp đỡ lẫn nhau.
Còn đối với DN, hãy coi hỗ trợ của Nhà nước là quan trọng nhưng không phải là tất cả, cốt lõi nhất vẫn là từ bản thân DN. Muốn thành công trong hội nhập thì yếu tố then chốt vẫn là DN phải thực sự quan tâm đến cơ hội và thách thức khi hội nhập sâu trong bối cảnh mới. Tức là DN phải chủ động nâng cao năng lực quản trị, nâng cao trình độ khoa học công nghệ cũng như chất lượng nguồn nhân lực, phải tìm hiểu thị trường, xác định lợi thế so sánh, tăng cường sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Cảm ơn bà đã trả lời phỏng vấn!