Củng cố niềm tin
Còn nhớ, vào tháng 8/2011, lạm phát đã vọt lên mức 23%. Đó cũng là lúc nền kinh tế bị đẩy đến trước nguy cơ bất ổn vĩ mô, nên chống lạm phát cao đã trở thành nhiệm vụ khẩn thiết bậc nhất của chính sách tiền tệ, tín dụng. Ngay sau đó, Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã thận trọng tuyên bố NHNN sẽ thực hiện các giải pháp điều hành để ổn định thị trường, kiềm chế lạm phát cao.
Mục tiêu đưa ra, vào thời điểm đó gồm: giảm lãi suất tín dụng xuống mức 17 - 19%/năm vào cuối năm 2011; chấm dứt cơ chế 2 tỷ giá và từ đầu tháng 9/2011, đến hết năm 2011, tỷ giá hối đoái chỉ dao động trong khoảng 1%; và từng bước ổn định thị trường vàng. Có thể thấy, những cam kết đó đã được thực hiện hiệu quả trong năm 2011. Niềm tin chính sách đã được tạo ra.
Tuy nhiên, việc củng cố niềm tin đó lại là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa hơn, được thị trường kỳ vọng nhiều hơn. Vì vậy, đối với vấn đề “nóng” như lãi suất, ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra chủ trương sẽ linh hoạt và kịp thời giảm lãi suất tín dụng theo tín hiệu thị trường. Chủ trương này đã được thể hiện nhất quán từ đầu năm đến nay. Có thể thấy ở chỗ, khi CPI khẳng định được tính “tất yếu giảm”, thì lãi suất đã được điều chỉnh giảm ngay. Việc giảm lãi suất trần huy động từ mức 14%/năm (đã neo từ cuối năm 2010) xuống 13%/năm vào đầu tháng 3/2012, lại tiếp tục giảm xuống 12%/năm vào đầu tháng 4/2012, đã minh chứng cho “cam kết” điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.
Cũng có ý kiến cho rằng, NHNN cần giảm lãi suất nhanh hơn để hỗ trợ nền kinh tế đang có dấu hiệu suy giảm. Thế nhưng, cần phải hiểu rằng, mặc dù lạm phát đã giảm tốc, song tại thời điểm giảm lãi suất huy động xuống 12%, lạm phát tính theo năm vẫn lên tới 14,15% và đặc biệt, kỳ vọng lạm phát vẫn còn rất cao. Thế nên việc điều hành chính sách tiền tệ cần phải rất thận trọng. Hơn thế, nếu lãi suất huy động giảm quá nhanh trong một thời gian ngắn có thể ảnh hưởng đến tâm lý của người gửi tiền. Và nếu người dân chuyển sang nắm giữ tài sản khác thay vì gửi tiền thì hậu quả sẽ khôn lường.
Chính vì lẽ đó, khi lạm phát tiếp tục giảm xuống còn 10,54% vào cuối tháng 4, NHNN áp trần lãi suất cho vay 15% đối với 4 lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn hiện nay.
Mặc dù vậy, việc lập trần lãi suất huy động hay cho vay cũng đều là giải pháp hành chính, nếu kéo dài quá lâu sẽ gây méo mó cho thị trường. NHNN cũng thấu hiểu điều này. Song do phải kiêm một lúc hai nhiệm vụ trái chiều đó là vừa phải kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, vừa phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã khiến cho dư địa của chính sách tiền tệ bị thu hẹp. “Cực chẳng đã”, NHNN phải dùng đến các mệnh lệnh hành chính.
Thống đốc từng bày tỏ trước Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 vừa qua, rằng điều hành chính sách tiền tệ sao cho vừa kiềm chế được lạm phát cao, vừa bảo đảm được tăng trưởng hợp lý là việc làm khó như đi trên dây. Điều đó cũng có nghĩa là để đi được đến đích, vấn đề cốt tử là phải tạo được thế cân bằng. Trong thực tế, từ đầu năm đến nay, những giải pháp điều hành lãi suất theo hướng giảm, đã rất hiệu quả.
Điều tra công bố ngày 11/5 mới đây của Công ty cổ phần chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSC) cho biết, hiện lãi suất cho vay bình quân đã giảm xuống mức 17,24%/năm, tức đã giảm 1,4% so với thời điểm Quyết định 693 về giảm lãi suất trần có hiệu lực. Có thể liền trong lúc này, lãi suất cho vay chưa thể giảm ngay, giảm mạnh và đồng loạt ở mọi kênh tín dụng. Nhưng cần hiểu rằng việc điều hành chính sách tiền tệ đang phải giải quyết hài hòa giữa hai mục tiêu: tăng trưởng và lạm phát; chính sách lãi suất phải tạo được cân bằng lợi ích giữa người gửi tiền - ngân hàng - người vay (doanh nghiệp).
Ama Linh