Cuộc tranh cãi trong nội bộ FED: Thất nghiệp hay đồng đô la?
Ảnh minh họa |
Việc này khiến cho cổ phiếu các công ty tăng giá cùng với sự giảm giá của đồng đô la và lợi suất trái phiếu kho bạc. Các nhà đầu tư trở nên bối rối hơn trước khi có cuộc gặp của Fed.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là: “Điều gì đã xảy ra?”. Một số nhà bình luận cho rằng, đồng đô la mạnh lên có thể khiến Fed lo lắng, bởi nó sẽ làm dấy lên nguy cơ giảm phát và giảm giá nhập khẩu. Trên thực tế, 95% hàng hoá nhập khẩu vào nền kinh tế Mỹ được định giá bằng đồng đô la (ví dụ như giá dầu). Giá dầu giảm đã gây ảnh hưởng lớn đến cả giá nhập khẩu và giá tiêu dùng.
Ước tính, đồng đô la cứ tăng 1% thì sẽ làm giảm 0,3% giá nhập khẩu các mặt hàng phi dầu mỏ trong vòng 6 tháng. Tuy nhiên, những hàng hoá này chỉ góp một phần nhỏ trong giỏ hàng hóa tiêu dùng và ảnh hưởng lên chỉ số giá tiêu dùng của việc đồng đô la tăng 9% chỉ ít hơn 0,1%. Vì vậy, đây khó có khả năng là vấn đề cần quan tâm.
Thay vào đó, “sức khỏe” của thị trường lao động mới là vấn đề trọng tâm của cuộc tranh luận tại Fed. Dự báo kinh tế mới nhất của Fed cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (tỷ lệ thất nghiệp không làm lạm phát gia tăng - NAIRU) của Mỹ được dự báo sẽ giảm xuống mức khoảng từ 5,0 - 5,2% trong năm nay. Điều quan trọng cần lưu ý, con số này thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp hiện nay là 5,5%.
NAIRU (hay đường cong Philips dài hạn) là một khái niệm được đưa ra từ những năm 1970 thể hiện rằng không còn sự đánh đổi trong dài hạn giữa thất nghiệp và lạm phát. Các nhà kinh tế cho rằng, đây là một hiện tượng của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và bất cứ chính sách nào làm tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống dưới mức này đều dẫn đến hệ quả là gia tăng lạm phát trong ngắn hạn. Hiện nó đang ở dưới mức trước khủng hoảng, khoảng 62,8%.
Nếu sự suy giảm trong tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động từ năm 2000 mang tính chu kỳ, sau đó sẽ có nhiều người tham gia vào lực lượng lao động, nó sẽ giảm áp lực lên tiền lương trong thời gian dài và Fed sẽ không cần phải tăng lãi suất. Nhưng nếu sự suy giảm này có cấu trúc thì sẽ đạt tới NAIRU và lạm phát bắt đầu tăng tốc, khi đó Fed cần có hành động sớm.
Trong khoảng thời gian hơn 10 năm trở lại đây, có 145 triệu người làm việc, 10 triệu người thất nghiệp và 91 triệu người được tính là không tham gia vào thị trường lao động. Các nhà hoạch định chính sách nhìn nhận tỷ lệ tham gia thấp như hiện tại như việc ám chỉ sự chậm lại của thị trường lao động và họ không nên mong đợi tỷ lệ này sẽ tăng một cách mạnh mẽ trong tương lai. Theo dự báo, tỷ lệ này sẽ có xu hướng tiếp tục sụt giảm trong thập kỷ tới.
Yếu tố hai đầu của thang tuổi trong tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động cũng thể hiện vai trò khá quan trọng. Kể từ năm 2000 đến giữa năm 2014, tỷ lệ những người từ 16-24 tuổi tham gia vào lực lượng lao động giảm từ 66% xuống 55%. Xu hướng này dẫn đến sự suy giảm trong tỷ lệ tham gia tổng thể khoảng 40%. Điều này có thể do vấn đề giáo dục.
Nhiều trẻ em được đi học đại học, ít người tham gia các công việc bán thời gian (có thể do áp lực học tập lớn hơn); và ít người trẻ làm các công việc làm thêm mùa hè vì họ tham gia các khóa học thêm nhằm nâng cao cơ hội được vào đại học.
Mặt khác, làn sóng của việc gia tăng dân số bước vào độ tuổi 62 trong năm 2008 khi cuộc khủng hoảng bắt đầu khiến một số phải nghỉ hưu sớm cùng lúc thị trường chứng khoán sụt giảm và họ bị giảm nguồn thu nhập tài chính. Một số người phải quyết định ở lại trong lực lượng lao động vì họ không thể trang trải nổi nếu nghỉ hưu. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia của nhóm tuổi 55-64 có xu hướng thấp hơn so với nhóm trẻ. Vì vậy, tỷ lệ tham gia có thể giảm khoảng hai điểm hoặc hơn.
Những yếu tố khác cần phải nhắc đến ở đây là môi trường làm việc và sự tự nguyện đi làm của phụ nữ. Công nghệ và toàn cầu hóa dẫn tới hiện tượng những người lao động có tay nghề kém sẽ khó khăn khi tìm kiếm công việc hoặc chỉ có thể kiếm được công việc với mức lương thấp hơn so với công sức bỏ ra.
Bên cạnh đó, trong ba thập kỷ có xu hướng gia tăng ổn định số phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động, nhưng sau năm 2000, xu hướng này đang hạ dần.
Một số quan điểm tin rằng, thị trường lao động sẽ ít có khả năng giảm nhiệt. Việc tăng lương gần đây tại Wal-Mart có thể báo trước sự thay đổi trong xu hướng định giá tiền công. Nhưng một số người khác thì đang chờ đợi và quan sát, nếu họ chấp nhận lập luận này thì Fed phải có hành động nhanh chóng.