Đau lòng nhìn thiên tai kéo lùi tăng trưởng
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng để đối phó với thách thức thiên tai | |
Cần chủ động đối phó thiên tai | |
Quản lý rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu tại Việt Nam |
Theo thống kê rủi ro do BĐKH, hiện Việt Nam đứng thứ 7 trên toàn cầu với mỗi năm thiệt hại kinh tế trên 1% GDP. Việt Nam cũng là một trong 5 quốc gia chịu tác động rất mạnh của BĐKH, nước biển dâng.
Còn theo thống kê từ báo cáo nghiên cứu mang tên: “Tác động của BĐKH tại Việt Nam: Hàm ý chính sách từ góc nhìn kinh tế” của nhóm nghiên cứu: PGS-TS. Đinh Đức Trường, TS. Vũ Thị Hoài Thu, TS. Nguyễn Công Thành (Đại học Kinh tế quốc dân), giai đoạn 1995-2013 đã xảy ra 867 loại thiên tai tại các vùng, miền trên khắp cả nước, tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế hàng năm và còn để lại di hại lớn và ô nhiễm môi trường còn kéo dài nhiều năm sau đó.
Nông dân sẽ là người thấm hơn ai hết tác động của thiên tai |
Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, BĐKH diễn biến phức tạp và diễn ra ở nhiều vùng hơn. Ảnh hưởng của BĐKH đã tác động tiêu cực đến tình hình phát triển kinh tế-xã hội, gây tổn thất lớn về người và tài sản. Chỉ riêng năm 2015, ước tính thiệt hại vì thiên tai tới 8.114 tỷ đồng. Và BĐKH dự báo sẽ phức tạp hơn nữa trong tương lai.
Xu hướng nước biển dâng, nhiệt độ tăng và các hiện tượng thời tiết cực đoan hơn sẽ gây thiệt hại ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh tế và đời sống người dân. Một báo cáo năm 2012 của CIEM dự báo, với mức GDP vào năm 2050 có thể đạt trên 500 tỷ USD thì thiệt hại do BĐKH gây ra cũng có thể lên đến 40 tỷ USD (tương đương 8% GDP).
Trước thực tế BĐKH ngày càng phức tạp, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp để ứng phó nhưng chưa thực sự thành hành động.
Từ năm 2008 chúng ta đã có chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH; năm 2011 có chiến lược quốc gia về BĐKH; năm 2012 ban hành chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh hay năm 2015 vừa qua, Việt Nam đã đăng ký đóng góp 1 triệu USD cho Quỹ khí hậu xanh 2016-2020 và cam kết giảm 8% khí nhà kính, tập trung vào năng lượng, giao thông và nông nghiệp…
Chủ trì cuộc họp lần thứ 7 của Ủy ban Quốc gia về BĐKH ngày 19/4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã quán triệt, ứng phó với BĐKH phải là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, đồng thời phải vừa chủ động thích nghi, vừa ứng phó hiệu quả hơn với BĐKH. Và đó là một chỉ đạo rất kịp thời trong bối cảnh hiện nay.
“Dù đã được cảnh báo từ lâu và các chính sách để ứng phó cũng đã có. Nhưng có mấy ai quan tâm đúng nghĩa, để có sự thay đổi chính sách cho phù hợp và có hành động thực tế”, GS. Lê Du Phong, Đại học Kinh tế quốc dân phát biểu đầy xúc cảm. Và ông cảnh báo về sự an nguy của ngành nông nghiệp, kéo theo đó là những vấn đề nghiêm trọng của nền kinh tế. Đơn cử như, BĐKH có thể làm giảm sản lượng gạo từ 3 - 9 triệu tấn vào năm 2050…
Để thực sự biến chủ trương và các chính sách liên quan thành những giải pháp, hành động cụ thể và hiệu quả thì vẫn là vấn đề nan giải. Bởi điều này một mặt đòi hỏi công tác nghiên cứu, dự báo và xây dựng kịch bản về BĐKH phải sát đúng nhất với diễn biến thực tế.
Mặt khác là khả năng lồng ghép vấn đề này vào các chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt quy hoạch thủy lợi, quy hoạch sản xuất nông nghiệp, thủy lợi trên cả nước.
Người dân cũng cần được tuyên truyền, thông tin nhiều hơn, kịp thời hơn về BĐKH để họ có thể chủ động phòng tránh cũng như có những biện pháp phòng vệ, giảm nhẹ thiệt hại một khi thiên tai xảy ra… Đây cũng là một phần trong những nội dung đã được Thủ tướng Nguyên Xuân Phúc nêu ra trong cuộc họp của Ủy ban Quốc gia về BĐKH vừa qua.
Nhìn ở góc độ kinh tế, công tác chống BĐKH cần tập trung vào lựa chọn cơ cấu kinh tế phù hợp với từng địa phương cụ thể, kết hợp với đầu tư chuyển giao công nghệ thích nghi cho mỗi địa phương. Bên cạnh đó, việc đầu tư ngân sách nhiều hơn cho BĐKH là cần thiết nhưng trong bối cảnh ngân sách khó khăn hiện nay, nguồn ngân sách chắc chắn sẽ không thể đáp ứng được đầy đủ để đối phó với BĐKH cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Do đó, việc đa dạng hóa tài chính cho BĐKH, nhất là huy động sự tham gia của khu vực tư nhân (thông qua cơ chế hợp tác công - tư), nguồn tài chính và tư vấn từ nước ngoài cũng vô cùng quan trọng…
Phát triển nền kinh tế theo hướng xanh, sạch dù còn mới mẻ với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam và chắc chắn sẽ còn nhiều thách thức về thể chế, chính sách, tài chính, công nghệ... để triển khai được song đây lại là con đường tất yếu phải thực hiện nếu muốn đạt được mục tiêu phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường.
Năm 2015, NHNN đã ban hành chỉ thị 03/CT-NHNN về “Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động tín dụng”. Theo đó, NHNN yêu cầu các TCTD rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế tín dụng cho phù hợp với mục tiêu Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020. Các TCTD tập trung nguồn lực để cấp tín dụng cho các dự án, phương án sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường và xã hội, qua đó thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. |