Để rộng đường cho tái cơ cấu
Có thể giải thể hoặc cho phá sản TCTD yếu kém | |
Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu: Cơ sở để xử lý toàn diện, triệt để | |
Tăng khả năng chống đỡ các cú sốc |
Ông Vũ Đình Ánh |
Theo nhận định của TS. Vũ Đình Ánh, Dự thảo Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu hướng tới hai trọng tâm. Thứ nhất, Dự thảo đưa ra các tiêu chí phát hiện những trường hợp NH sẽ phải tái cơ cấu (TCC). Thứ hai, là quy trình, cách thức để thực hiện TCC. Những vấn đề được Dự thảo Luật đề cập tới khá sát với hiện trạng của hệ thống các TCTD. Tuy nhiên, cũng có những quy định cân nhắc thêm xem có nên đưa vào Luật hay không…
Ông có thể cho biết cụ thể là quy định nào trong dự thảo?
Tôi thấy, Dự thảo Luật có đặt ra khá nhiều tiêu chí liên quan tới trường hợp TCTD đưa vào kiểm soát đặc biệt. Thực tế, kiểm soát đặc biệt không phải là vấn đề mới. Trước khi đặt vấn đề TCC thì một số NH đã phải đưa vào diện này rồi. Nếu như vậy, liệu có cần thiết đưa quy định kiểm soát đặc biệt vào Luật này không? Hay thuộc về nghiệp vụ thường xuyên trong quản lý của NHNN đối với hệ thống TCTD?
Theo quan điểm của tôi, kiểm soát đặc biệt nên đặt ra ngoài, không nên đưa vào Luật. Bởi như nói ở trên, không cần có Luật này, các NH vẫn có thể bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Mặt khác, mục tiêu của kiểm soát đặc biệt khác với mục tiêu của TCC. Kiểm soát đặc biệt như là vấn đề chiến thuật. Còn TCC là vấn đề chiến lược.
Đơn cử, trong báo cáo của các NHTM, không chỉ ở Việt Nam mà ở nước ngoài cũng vậy, thông thường khi lỗ họ có nhiều cách để che giấu. Do đó, nếu đợi đến khi “hậu kiểm” mới phát hiện ra lỗ, rồi đưa vào kiểm soát đặc biệt, tôi e lúc đó là không kịp. Vì thế, theo tôi, những quy định về kiểm soát đặc biệt thì không nên luật hoá. Bởi nếu cứ theo luật sẽ bỏ sót nhiều trường hợp phải đưa vào kiểm soát đặc biệt.
Theo ông, vì sao Dự thảo Luật vẫn giữ phương án mua 0 đồng các TCTD yếu kém và bổ sung phương án phá sản?
Tôi nghĩ phương án mua NH 0 đồng vẫn là một cách xử lý phù hợp trong giai đoạn này. Giải pháp 0 đồng giống như bước đệm trung gian giữa phương án cho sáp nhập NH yếu kém vào một TCTD khác gánh đỡ và phương án phá sản. Đây là biện pháp răn đe nhưng vẫn tạo điều kiện để NH yếu kém có cơ hội khắc phục. Không chỉ ở Việt Nam, nhiều nước trên thế giới thực hiện biện pháp 0 đồng. Có khác chỉ là cách gọi thay vì 0 đồng thì họ coi đây là hình thức quốc hữu hóa.
Theo quan điểm của tôi các quy định thời gian, điều kiện để chấm dứt NH 0 đồng chuyển sang hình thức khác… cũng phải Luật hóa để phân biệt rõ đâu là trường hợp áp dụng biện pháp 0 đồng, trường hợp nào sẽ phải giải thể, phá sản. Cách này để tránh trường hợp mập mờ, đáng ra NH nào đó phải phá sản nhưng lại áp dụng biện pháp 0 đồng.
Tôi cho rằng, việc đưa quy định phá sản NH vào Luật là một bước tiến quan trọng và cần thiết. Chúng ta không nên kéo dài quá lâu sự tồn tại của một “xác chết”. Chính vì lần đầu tiên đặt ra vấn đề này nên mọi trình tự phải cụ thể và đưa ra nhiều công cụ để giải quyết một cách thấu đáo. Cụ thể, trong phương án hỗ trợ đối với trường hợp xử lý pháp nhân phá sản tại Dự thảo Luật có đề xuất: Chính phủ quyết định mức cho vay đặc biệt theo đề nghị của NHNN để chi trả số tiền gửi cá nhân còn lại sau khi đã được Bảo hiểm Tiền gửi chi trả và cơ chế xử lý đối với số tiền cho vay đặc biệt không thu hồi được từ ngân sách.
Hay như Chính phủ cấp vốn để bổ sung vốn điều lệ… Tôi nghĩ, các đề xuất trên là phù hợp. Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các TCTD, xử lý nợ xấu bao trùm rất nhiều vấn đề và nó không chỉ là việc riêng của NHNN mà còn liên quan đến Chính phủ, các bộ, ngành khác tham gia TCC. Tất nhiên, mức độ tham gia của các chủ thể trên thế nào tùy từng trường hợp, tình huống xảy ra.
Đơn cử như nếu có NH nào ở Việt Nam buộc phải phá sản thì với tình hình thực tế tại Việt Nam không thể chỉ có sự tham gia của Bảo hiểm Tiền gửi chi trả tiền cho người gửi tiền, mà Chính phủ cần phải đứng ra thanh toán hỗ trợ NH nhằm đảm bảo an toàn hệ thống và quan trọng nữa là bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền như nguyên tắc luật đặt ra.
Vì thế, với tư cách là cơ quan soạn thảo, NHNN phải đưa ra nhiều công cụ có thể giải quyết hỗ trợ các TCTD yếu kém khắc phục những tồn tại của mình góp phần lành mạnh hóa hệ thống. Còn vấn đề sử dụng công cụ đó hay không thì phụ thuộc vào điều kiện thực tế.
Ông nghĩ sao khi nhiều ý kiến cho rằng, vai trò XLNX của VAMC trong Dự thảo Luật khá mờ nhạt?
Theo tôi, quan trọng nhất trong vấn đề XLNX liên quan tới quyền bên cho vay đối với TSBĐ. Vấn đề này đã được đề cập tới tại Dự thảo Luật. Còn đối với vai trò của VAMC trong xử lý nợ xấu, quan điểm của tôi là nếu cho VAMC một quyền năng cao hơn thì đồng thời phải quy định trách nhiệm của đơn vị này cũng phải cao hơn chứ không như hiện nay là kho giữ hộ nợ xấu.
Xin cảm ơn ông!