DNNN có thể bị giám sát tài chính đặc biệt khi có dấu hiệu mất an toàn tài chính
Ảnh minh họa |
Nghị định cũng chỉ rõ các dấu hiệu mất an toàn tài chính của. Cụ thể đối với DN đang trong giai đoạn lỗ kế hoạch, có số lỗ phát sinh năm báo cáo lớn hơn 30% so với mức lỗ kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Đối với DN sau giai đoạn lỗ kế hoạch, có số lỗ phát sinh trong năm báo cáo từ 30% vốn đầu tư của chủ sở hữu trở lên hoặc số lỗ lũy kế lớn hơn 50% vốn đầu tư của chủ sở hữu; có hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu vượt quá mức an toàn theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại DN và quy định của cơ quan đại diện chủ sở hữu (nếu có); có hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn nhỏ hơn 0,5.
Bên cạnh đó, còn có các dầu hiệu khác mà cơ quan đại diện chủ sở hữu cần xem xét khi xác định dấu hiệu mất an toàn tài chính của DN. Theo đó, đối với DN đang trong giai đoạn lỗ kế hoạch: Có số lỗ thực tế lớn hơn số lỗ trong kế hoạch trong 2 năm liền.
Đối với DN sau giai đoạn lỗ kế hoạch: Lỗ hai năm liên tiếp trở lên; Doanh thu thuần hoặc lợi nhuận gộp giảm liên tiếp 2 năm trở lên; có hệ số tín nhiệm thấp theo xếp hạng của các tổ chức xếp hạng tín dụng; Không tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính, hoặc có ý kiến ngoại trừ trong Báo cáo kiểm toán trong 2 năm liền về cùng một vấn đề có ảnh hưởng trọng yếu tới hoạt động SXKD của DN.
Nghị định nêu rõ, các dấu hiệu nêu trên là dấu hiệu cảnh báo khả năng đặt một DNNN vào tình trạng giám sát tài chính đặc biệt. Khi DN có một trong những dấu hiệu này, cơ quan đại diện chủ sở hữu và cơ quan tài chính cùng cấp phối hợp xem xét dấu hiệu mất an toàn tài chính, tình hình hoạt động SXKD và đầu tư của DN để quyết định đưa DN vào diện giám sát tài chính đặc biệt hay tiếp tục thực hiện giá sát tài chính theo quy định.