Đổi mới, đột phá - nền tảng cho sự phát triển bền vững
GS.TS. Nguyễn Văn Nam |
Kinh tế Việt Nam đang bước vào những tháng cuối của kỳ kế hoạch kinh tế 5 năm 2011 – 2015 với rất nhiều dấu ấn trên tất cả các lĩnh vực, trong đó ngành Ngân hàng đã có những đóng góp trực tiếp và quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô diễn biến theo đúng định hướng kỳ vọng các giải pháp chỉ đạo điều hành của Đảng, Quốc hội, Chính phủ.
Xung quanh vấn đề này phóng viên trao đổi với GS.TS. Nguyễn Văn Nam, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX01.11-15, Thành viên Hội đồng Lý luận TW về thành tựu đổi mới ngành Ngân hàng giai đoạn 2011-2015.
Kinh tế Việt Nam đang bước vào những tháng cuối của kỳ kế hoạch kinh tế 5 năm 2011 – 2015 với rất nhiều dấu ấn trên tất cả các lĩnh vực, trong chặng đường đó theo ông ngành Ngân hàng đã để lại những ấn tượng gì?
Trên cơ sở bám sát chủ trương của Đảng, Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô từng năm, NHNN đã xác định và kiên trì theo mục tiêu xuyên suốt là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD.
Đến nay, kinh tế vĩ mô diễn biến theo đúng định hướng kỳ vọng của các giải pháp chỉ đạo điều hành. Lạm phát đã được kiểm soát và ổn định ở mức thấp; hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định; với các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, tăng trưởng kinh tế cải thiện tích cực...
Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng đóng góp tích cực vào việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, đã dành hàng ngàn tỷ đồng để giúp đỡ các đối tượng chính sách, người nghèo có hoàn cảnh đặc biệt, ngành Ngân hàng là đầu mối để giúp chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước được thực hiện tốt...
Những kết quả nêu trên đã được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, nâng hệ số tín nhiệm quốc gia do những thành tựu đạt được của Việt Nam về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có những đóng góp quan trọng của ngành Ngân hàng.
Trong những kết quả đó, theo ông đâu là “điểm nhấn” của NHNN nói riêng và của ngành Ngân hàng nói chung trong giai đoạn 2011 - 2015?
Đối với tôi, trong chuỗi kết quả đó, là kiềm chế, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và thiết lập lại sự an toàn hệ thống các TCTD bằng các giải pháp khôn khéo, sáng tạo là những điểm nhấn trong công tác quản lý, điều hành giai đoạn 2011 – 2015.
Lạm phát từ mức hai con số của năm 2011 là 18,3% đã được kiềm chế xuống còn ở mức một con số vào năm 2012 là 6,02% và tiếp tục được kiểm soát, giảm mạnh trong những năm tiếp theo và hiện ở mức rất thấp khoảng 0,68% (tháng 7/2015 so với 12/2014).
Đồng thời, điều hành tỷ giá uyển chuyển, bám sát diễn biến của trong nước và thế giới, đảm bảo ổn định tỷ giá theo mục tiêu cam kết hàng năm, điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Trong vòng 5 năm, tỷ giá được điều chỉnh tăng khoảng 6%, bình quân điều chỉnh hàng năm 1 – 2%, ngoại trừ 8 tháng đầu năm 2015 khi đồng NDT có biến động mạnh và đồng USD tiếp tục duy trì tăng mạnh so với các đồng tiền khác.
Để có thể đạt được những kết quả đó, ngành Ngân hàng mà cụ thể là NHNN đã rất quyết liệt kiên định với mục tiêu “ổn định” trên tất cả các mặt công tác thông qua các giải pháp điều hành đồng bộ, khoa học, sáng tạo. Các giải pháp để kiềm chế, kiểm soát lạm phát hay ổn định tỷ giá không tách rời mà được thực hiện đồng bộ, đảm bảo xử lý hài hòa các mối quan hệ biện chứng giữa các vấn đề tiền tệ.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó thông qua việc kết hợp linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT (OMO, lãi suất, tín dụng...) trong công tác quản lý, điều hành của NHNN đảm bảo thanh khoản hệ thống, nâng cao vị thế VND, ngăn chặn những tác động bất lợi về mặt tâm lý lên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện để giảm mặt bằng lãi suất, hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng, chống đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế.
Tiếp đến, là công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD - một trong ba mũi nhọn của chương trình tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế. Theo nhìn nhận của tôi, tái cơ cấu hệ thống các TCTD được triển khai sớm nhất và đã thực hiện theo đúng những bước đi, lộ trình đặt ra từ việc xử lý những vấn đề cấp bách, kịp thời hạn chế rủi ro lan tỏa, bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, duy trì ổn định hệ thống, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong đó, NHNN đã triển khai nhiều giải pháp khá “táo bạo” trong việc xử lý nợ xấu và giải pháp tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém thông qua việc hợp nhất, sáp nhập và gần đây nhất là giải pháp quốc hữu hóa.
Việc xử lý nợ xấu đã được triển khai trong điều kiện cơ chế, nguồn lực thực hiện còn rất nhiều hạn chế. Trên tinh thần không sử dụng vốn ngân sách nhà nước, phát huy cao độ khả năng tự xử lý của các TCTD trên cơ sở trích lập dự phòng, trích trừ từ các nguồn thu nhập hàng năm của TCTD, đàm phán, thỏa thuận với khách hàng... kết hợp với sự hỗ trợ từ Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam – VAMC, hiện tại nợ xấu của hệ thống các TCTD Việt Nam đã giảm cuối tháng 8/2015 ở mức 3,21% và khoảng 3% vào cuối tháng 9/2015.
Mặc dù, hiệu quả xử lý nợ xấu qua VAMC vẫn còn có nhiều ý kiến, song phải thẳng thắn nhìn nhận rằng đây là một giải pháp khá khôn khéo trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, không có nguồn lực tài chính để mua đứt bán đoạn các khoản nợ xấu, các thị trường đầu tư chưa khởi sắc, giải pháp này sẽ tạo điều kiện cho các TCTD có thời gian và có thêm năng lượng để xử lý các khoản nợ này.
Bên cạnh việc xử lý nợ xấu, NHNN cũng đã rất quyết liệt trong việc xử lý các ngân hàng yếu kém nhưng quán triệt nguyên tắc không gây ra đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước.
Các giải pháp cơ cấu được áp dụng theo hướng khuyến khích thực hiện giải pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa các TCTD, trên nguyên tắc tự nguyện, ưu tiên huy động nội lực, phát huy vai trò chủ lực, chủ đạo của các NHTM Nhà nước trong công tác tái cơ cấu; chỉ trong những trường hợp đặc biệt, để đảm bảo duy trì được lòng tin của thị trường đối với các cam kết chính sách mạnh mẽ của cơ quan quản lý thì NHNN mới tham gia với vai trò là chủ sở hữu mới.
Chính vì thế, trong thời gian qua, chúng ta đã chứng kiến sự vào cuộc một cách chủ động và tích cực của các NHTM Nhà nước lớn như VietinBank, Vietcombank, BIDV trong quá trình tham gia cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém và một số ngân hàng sau khi được tái cơ cấu đến nay đã từng bước hoạt động bình thường, ổn định.
NHNN đảm bảo thanh khoản hệ thống, nâng cao vị thế VND |
Ông có khuyến nghị gì đối với công tác quản lý, điều hành của NHNN trong thời gian tới?
Hiện nay, mặc dù diễn biến kinh tế trong và ngoài nước vẫn còn phức tạp nhưng thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng trong nước đã được điều hành ổn định, “chữ tín” trong điều hành chính sách đã được tạo dựng, hoạt động của ngành Ngân hàng thực sự chuyển biến, đã được các tổ chức xếp hạng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, các ngân hàng nước ngoài tin tưởng và cam kết đầu tư, kinh doanh lâu dài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thời gian tới khi bối cảnh kinh tế có nhiều thay đổi, ngành Ngân hàng sẽ cần tiếp tục phát huy hơn nữa những thành tựu đã đạt được, nhìn nhận đúng những vấn đề còn tồn tại, yếu kém, có những giải pháp năng động, sáng tạo để chủ động nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức.
Theo đó, NHNN cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động và linh hoạt, nhằm thực hiện các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định hệ thống ngân hàng để tạo dựng niềm tin trong xã hội một cách vững chắc. Đồng thời, tiến hành đánh giá các kết quả của chương trình tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2011 – 2015 để xác định rõ những vấn đề cần tiếp tục phải xử lý trong giai đoạn tới.
Theo tôi chắc chắn sẽ còn nhiều vấn đề phát sinh, nhiều vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng nên hoạt động tái cơ cấu sẽ vẫn phải tiếp tục được thực hiện trong những năm tới để đảm bảo những bước cải tổ sẽ đem lại sức mạnh mới cho hệ thống, có thể đáp ứng được những chuẩn mực cao hơn về giám sát, quản trị, đảm bảo khả năng chống đỡ trước các cú sốc bên ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Ngoài ra, cần phải tiếp tục làm tốt công tác hoàn thiện thể chế, cơ chế, khuôn khổ pháp lý để tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
Bên cạnh đó, điều hành chính sách tiền tệ và tái cơ cấu hệ thống các TCTD hiệu quả phải đặt trong mối quan hệ với các chính sách quản lý vĩ mô khác. Vì thế NHNN cũng cần tiếp tục chủ động, phối hợp với các bộ, ngành cơ quan quản lý nhà nước trong việc phối hợp chính sách điều hành, đảm bảo thực hiện các mục tiêu chung của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Xin cảm ơn ông!