Động lực của phát triển
3 động lực cho tăng trưởng bền vững | |
Tạo động lực cho công nghiệp ô tô trong nước | |
Đặc khu kinh tế là một động lực tốt |
Theo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại DN và cổ phần hóa DNNN thời gian vừa qua cho thấy một thực trạng đáng buồn. Lẽ ra phải đóng vai trò dẫn dắt trong nền kinh tế, nhưng các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động của khu vực DNNN lại đang ở vị trí khóa đuôi.
Ảnh minh họa |
Hệ số ICOR của khu vực DNNN luôn cao hơn nhiều so với các thành phần kinh tế khác. Ví dụ, năm 2016 các DNNN phải bỏ ra gần 10 đồng vốn đầu tư mới thu được 1 đồng tăng trưởng, cao gấp gần 2 lần so với mức chỉ trên 5 đồng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và cao gấp hơn 1,5 lần so với mức trên 6 đồng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
Hơn nữa, mức sinh lời trên vốn chủ sở hữu và tài sản tại các DNNN không chỉ ở mức thấp, mà còn có xu hướng giảm liên tục theo thời gian, từ 16,4% và 6,5% năm 2012 xuống còn 10% và 4,6% năm 2016. Ngân sách nhà nước cũng đã nhiều năm thất thu với thành phần kinh tế nhà nước, tốc độ tăng thu chỉ đạt mức trung bình 3%/năm trong giai đoạn 2011-2016.
Điểm rất cần lưu ý là xu hướng sụt giảm hiệu quả sử dụng vốn tại các DNNN nêu trên lại diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà phục hồi, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, tức là nó diễn ra ngược chiều với xu thế chung. Điều này cho thấy, những yếu kém của khu vực DNNN chủ yếu là vấn đề nội tại của khu vực này, chứ không phải do những tác động từ môi trường bên ngoài.
Nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp tại các DNNN có thể điểm tên như: Hệ thống pháp luật còn chồng chéo, thiếu rõ ràng, nên chưa tạo đầy đủ quyền chủ động cho DN; Thiếu hệ thống công cụ đánh giá tổng thể về quản trị DN, hiệu quả hoạt động của DN;…
Bên cạnh đó, những kết quả yếu kém của khu vực DNNN so với khu vực DN ngoài nhà nước và khu vực DN FDI tồn tại trong một thời gian dài và phổ biến không chỉ ở nước ta, mà ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, kể cả các nền kinh tế có trình độ quản trị tiên tiến nhất đã cho thấy nguyên nhân gốc rễ nằm ở vấn đề sở hữu và động lực phát triển của DN.
Bởi vậy, nếu tỷ trọng sở hữu nhà nước tại các DN vẫn được duy trì ở mức cao áp đảo thì những nỗ lực cải cách khác nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN cũng sẽ không có nhiều ý nghĩa và không thể đem lại những kết quả như mong muốn.
Thực tiễn cho thấy, sự chậm trễ trong tiến trình cổ phần hoá không chỉ là do những nguyên nhân mang tính khách quan như khó khăn trong định giá DN và xử lý nợ tồn đọng hay do bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế chưa thuận lợi…, mà còn do những yếu tố mang tính chủ quan như những lo ngại của ban lãnh đạo DN về việc phải chịu trách nhiệm cho những sai phạm, kết quả yếu kém của công ty khi DN khi phải thực hiện kiểm toán và đánh giá lại giá trị để thực hiện cổ phần hoá.
Vì vậy, chủ trương đúng đắn và rất cần được quán triệt xuyên suốt trong quá trình cải cách DNNN để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn bộ nền kinh tế là phải quyết liệt đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các DNNN một cách thực chất và thoái vốn nhà nước ra khỏi hầu hết các lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước không cần phải nắm giữ theo đúng tinh thần của các nghị quyết của Đảng.
Bên cạnh đó, nếu tiến trình cổ phần hoá các DNNN được thúc đẩy một cách quyết liệt như đối với tiến trình cải cách hành chính, cắt bỏ giấy phép con và điều kiện kinh doanh thời gian qua thì động lực phát triển tại các DN sẽ được khơi dậy và tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân, từ đó thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và cải thiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.