FDI cũng… tụt hậu
Mặc dù không ngừng mở rộng đầu tư sản xuất tại Việt Nam, song đóng góp của khối DN FDI vào tăng trưởng kinh tế dường như lại không tương xứng với sự “bành trướng” đó. Những nghiên cứu và phân tích gần đây của các chuyên gia đã chỉ ra nhiều biểu hiện cho thấy hiệu quả của dòng vốn FDI mang lại cho nền kinh tế đang chững lại, tốc độ đóng góp vào tăng trưởng ngày càng không tương xứng tới tốc độ tận thu các lợi thế so sánh của Việt Nam.
Biểu hiện rõ nét nhất thấy được khi so sánh tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng so với tỷ trọng sản xuất công nghiệp và tỷ trọng xuất khẩu của khối FDI.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã biến lợi thế lao động rẻ ở Việt Nam thành lợi thế của họ khi chuyển vào công nghệ lạc hậu |
Theo nghiên cứu của Viện Kinh tế Việt Nam, tỷ trọng sản xuất công nghiệp và tỷ trọng xuất khẩu của khối FDI đã tăng nhanh trong 20 năm qua. Năm 1995, DN FDI tạo ra 1/4 tổng giá trị sản xuất công nghiệp và 17,1% tỷ trọng xuất khẩu, tương ứng đóng góp hơn 6% GDP. Mười năm sau, các tỷ trọng tương ứng là 43,8% và 42,8%, trong khi tỷ trọng GDP tương ứng gần 16%.
Ngay sau đó, khu vực FDI đã vượt lên trên khu vực nội địa về giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 2014, vượt lên về kim ngạch xuất khẩu từ năm 2004 và hiện đã chiếm tới gần 70% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nền kinh tế.
Tuy nhiên đáng nói là đóng góp vào GDP của khối này lại tiến rất chậm chạp khi đến nay chỉ chiếm chưa đầy 1/5. Khu vực FDI chỉ tạo ra lượng việc làm tương đối nhỏ, chưa đến 5%, theo báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2013 của Tổng cục Thống kê.
Tổng cục Thống kê vừa qua trong Báo cáo “Trình độ phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam so với các nước trong khu vực: Kết quả và dấu hiệu, nguy cơ tụt hậu” cũng phân tích, xét về thu nhập quốc gia của Việt Nam thể hiện qua chỉ tiêu GNI ngày càng thấp hơn so với GDP. Giai đoạn 1990-1995, bình quân GNI chiếm 98,4% GDP; giai đoạn 2011-2012 chỉ còn 95,8%, trong khi các nước khác đều gần 97%. Điều này cho thấy luồng tiền ra khỏi Việt Nam ngày càng nhiều.
Cơ quan này lý giải, nguyên nhân tỷ lệ GNI so với GDP giai đoạn sau thấp hơn giai đoạn trước là do đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng lớn và khu vực này chuyển một lượng đáng kể thu nhập từ đầu tư của họ ra khỏi Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng tỷ lệ vốn FDI thực hiện trong nhiều năm là không cao, cũng không có xu hướng tăng tương ứng với lượng vốn đăng ký. Đồng thời, tăng trưởng dựa vào vốn FDI về dài hạn là không bền vững.
Cũng nhiều biểu hiện cho thấy FDI đã góp phần biến Việt Nam thành điểm đến của công nghệ trung bình và lạc hậu. FDI không thể tạo ra lan tỏa công nghệ sang khu vực nội địa thấp, cũng không thúc đẩy quá trình nâng cao kỹ năng người lao động. Một cách vô tình, điều này cũng gián tiếp ảnh hưởng tới tăng trưởng năng suất lao động. Dữ liệu cho thấy, Việt Nam xếp hạng rất thấp trong khu vực về trình độ công nghệ của sản phẩm tinh chế trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu và việc cải thiện là rất hạn chế.
Vì vậy, “nhìn ở góc độ công nghệ của sản phẩm xuất khẩu, chưa hẳn đúng khi nói Việt Nam đã tận dụng tốt cơ hội mở cửa và hội nhập. Thay vào đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã biến lợi thế lao động rẻ ở Việt Nam thành lợi thế của họ để chuyển vào những công nghệ lạc hậu”, dẫn nghiên cứu của Viện Kinh tế Việt Nam.
TS. Vũ Tuấn Anh, chuyên gia kinh tế, Viện Kinh tế Việt Nam chỉ ra thực trạng là hiện có tới 90% công nghệ chuyển giao thông qua các DN FDI, chỉ có 10% thông qua việc mua bán công nghệ trên thị trường. Thực tế là công nghệ mà các DN nước ngoài chuyển giao cho Việt Nam không phải loại tiên tiến, đa số chỉ đạt trình độ công nghệ ở mức trung bình, nhiều trường hợp là công nghệ cũ, lạc hậu. Cá biệt có trường hợp chuyển giao lại là công nghệ thanh lý khiến Việt Nam có nguy có trở thành bãi rác thải.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cũng minh họa thêm về hiệu quả và chuyển giao công nghệ từ các DN FDI đang ngày càng tụt hạng. Bởi năm 2013-2014, Việt Nam xếp thứ 103 về chỉ số này, giảm 46 bậc sau 5 năm, trong khi Malaysia xếp thứ 13, Thái Lan thứ 36, Indonesia 39, Philippines thứ 42 và Campuchia thậm chí còn cao hơn ở thứ 44.
Cùng với đó thì khả năng tiếp nhận công nghệ của DN Việt Nam cũng “tụt dốc” nhanh chóng mặt tới 81 bậc, từ xếp hạng 54 năm 2008-2009 xuống 135 trong năm 2013-2014, thấp hơn nhiều so với Malaysia (thứ 33), Philippines (thứ 40), Indonesia (thứ 46), Thái Lan (thứ 50) và thậm chí còn thấp hơn Campuchia ở vị trí thứ 82.
Ngoài ra, hệ lụy khác là FDI thường tập trung vào các địa phương có môi trường kinh doanh thuận lợi, hạ tầng phát triển, nên sẽ làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Điều này tác động không nhỏ tới các quá trình hoạch định chính sách an sinh xã hội và hài hòa xã hội. Khu vực FDI, nhất là trong các khu công nghiệp, đóng góp không nhỏ vào tình trạng ô nhiễm môi trường, khiến cho chi phí khắc phục môi trường trong tương lai có thể xóa đi những lợi ích trước mắt mà khu vực này mang lại.