FDI thế hệ mới: “Ngã” từ đâu đứng lên từ đó
Các khuyến nghị thu hút FDI thế hệ mới | |
DN nội bước tới, DN ngoại cũng cần xích lại | |
Gần 7 tỷ USD vốn FDI vào khu công nghiệp |
Mặc dù kỳ vọng thu hút vốn FDI thế hệ mới với chất lượng cao hơn, song Việt Nam sẽ phải giằng co trong chính sách nắn dòng vốn ngoại bởi khoảng cách lớn giữa mục tiêu đặt ra và khả năng thực hiện trong thực tế. Khuyến nghị về chiến lược và định hướng thu hút vốn FDI thế hệ mới giai đoạn 2020-2030, các chuyên gia chỉ ra rằng cần nhìn nhận thẳng thắn hơn vào các thất bại trong thu hút FDI thời gian qua để sửa từ chính những sai lầm đó, như vậy mới có thể thu hút dòng vốn chất lượng cao.
Đóng góp của FDI chưa tương xứng với các nguồn lực mà khối này được nhận |
Vẫn khó nói câu từ chối
Đại diện cho Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC), ông Wim Douw - Chuyên gia trưởng lĩnh vực tư nhân phân tích, chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam đang “hào phóng một cách lãng phí”. Điều này thể hiện ở việc nhiều địa phương còn nặng tư duy về số lượng, đua nhau đưa ra các ưu đãi để thu hút FDI. Bên cạnh đó, khung chính sách hiện hành cũng chưa đủ để thu hút FDI thế hệ mới. Vì vậy cần có khung chính sách mới, trong đó chuyển từ mục tiêu ưu đãi thuế “thuần tuý lợi nhuận” sang các chính sách ưu đãi về hành vi như ưu tiên các dự án FDI có chất lượng cao hơn.
Cùng với đó, IFC cho rằng, với mô hình hiện tại của cơ quan quản lý nhà nước về FDI, chức năng, nhiệm vụ bị phân tán mạnh giữa nhiều bộ ngành, cơ quan, khiến Việt Nam có vị thế yếu kém trong việc nắm bắt cơ hội và giải quyết những thách thức của việc phát triển theo định hướng chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy IFC này khuyến nghị cần thành lập một cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài có đầy đủ chức năng để chỉ đạo việc thực hiện chiến lược thu hút FDI thế hệ mới.
Chia sẻ với quan điểm cần thay đổi cơ quan quản lý theo hướng tập trung về trung ương, song ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng Ban Pháp chế VCCI cho rằng, trên thực tế Việt Nam đã phân cấp thu hút và quản lý đầu tư xuống địa phương trong suốt hơn 15 năm qua, vì vậy vai trò địa phương rất lớn nếu không nói là quan trọng nhất trong việc thu hút và quyết định các dự án đầu tư. “Các địa phương sẽ không có động lực để thực hiện các định hướng sàng lọc dự án này, vì với khoảng cách phát triển hiện nay thì một số địa phương còn có khả năng cân nhắc, còn với nhiều địa phương khác thì có được dự án đã là tốt rồi”, ông Tuấn chỉ ra thực tế.
Là người nghiên cứu về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) nhiều năm qua, ông Tuấn chia sẻ, việc nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư tại địa phương khi đánh giá đầu tư đều thiếu rất nhiều thông tin về dự án cũng như nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN). Một số tỉnh thu hút và sàng lọc dự án từ kinh nghiệm của mình chứ không có chuẩn mực nào cả. Chẳng hạn dự án trong lĩnh vực nào thì có suất đầu tư thế nào, trình độ công nghệ ra sao, bao nhiêu đất là vừa, hoặc năng lực NĐTNN như thế nào... đều không có khung đánh giá cụ thể. Vì vậy họ nói về dự án hàng chục tỷ USD rất say sưa, trong khi năng lực hấp thụ của tỉnh rất hạn chế, hoàn toàn không khả thi.
Việc thiếu thông tin và quyết định dự án dựa trên kinh nghiệm đã dẫn đến hiện tượng cạnh tranh ngầm giữa các tỉnh. NĐTNN đã khai thác tâm lý này rất tốt để lựa chọn địa phương, vì vậy câu chuyện từ chối FDI vẫn rất hiếm gặp. “Một dự án đầu tư cứ đi vòng vòng, đến tỉnh này bị từ chối vì lý do ô nhiễm môi trường thì sang tỉnh liền kề lại được chấp nhận, thậm chí là tỉnh này còn ở đầu nguồn nước. Chia sẻ thông tin kém gây ra tình trạng cạnh tranh xuống đáy”, ông Tuấn lo ngại.
Nhìn thẳng để sửa sai
Đứng trước ngưỡng cửa thu hút FDI thế hệ mới, song tới các chuyên gia đặt vấn đề, qua các số liệu thống kê chúng ta thấy con số vốn đăng ký, thực hiện không phản ánh hết chất lượng dòng vốn. Đồng thời ngay cả chất lượng con số cũng là vấn đề đáng bàn. Nhiều dự án không hẳn là mang từ nước ngoài vào mà thực chất nguồn lực hầu như được lấy chính tại Việt Nam. Cùng với đó là những câu hỏi thực trạng sử dụng lao động có thực sự tạo ra việc làm bền vững không? Ngân sách thu từ dự án có tương xứng với số vốn đầu tư hạ tầng phục vụ? Hoặc mức độ lan toả nội ngành, hay lan toả sang các ngành khác tăng lên hay giảm đi?...
Từ thực trạng đó, các chuyên gia của IFC khuyến nghị cần phải có cuộc điều tra lượng hoá rõ ràng hơn về cung cầu về kỹ năng, công nghệ từ đó mới có các giải pháp, đề án, chương trình đổi mới sáng tạo quốc gia phù hợp với yêu cầu phát triển mới.
Chỉ ra thực trạng là các nghiên cứu vừa qua không đề cập tới mặt trái của FDI trong suốt hơn 30 năm thu hút dòng vốn này, TS. Phan Hữu Thắng - nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, mặc dù mục tiêu là thu hút FDI bền vững, hiệu quả, song các chiến lược vừa qua đưa ra các lĩnh vực thu hút FDI quá dàn trải, trong đó đều là các ngành mà Việt Nam đã tập trung thu hút từ trước tới nay. Vấn đề mà chúng ta còn thiếu là các giải pháp, kế hoạch cụ thể để làm sao thu hút đúng vào lĩnh vực mà chúng ta cần, dựa trên quy hoạch khu vực này thì thu hút lĩnh vực này, khu vực kia thu hút lĩnh vực kia. Bên cạnh đó, không thể có thu hút đầu tư đồng đều giữa các địa phương khi chúng ta còn có chênh lệch về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, vị trí địa chính trị…
“Lĩnh vực nào thu hút đầu tư thuận lợi nhất, mang lại hiệu quả nhất đối với khu vực FDI thì dành cho FDI, còn lĩnh vực nào cần dành lại cho tư nhân trong nước tham gia”, ông Thắng cho biết.
Các chuyên gia cũng khuyến nghị Việt Nam phải nỗ lực xây dựng môi trường kinh doanh phù hợp với nhu cầu của DN trong kỷ nguyên công nghệ 4.0. Việt Nam đang có chiến lược quốc gia hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nhưng môi trường kinh doanh được đánh giá chỉ ở mức 2.0. Yêu cầu bức thiết đặt ra cần phải đẩy mạnh cải cách hơn nữa, để thu hút NĐT, tăng cường đối thoại công tư, bảo vệ NĐTNN chân chính để họ tin tưởng làm ăn lâu dài ở Việt Nam.