Giảm lãi suất là chưa đủ
Ảnh minh họa |
Cùng với những chính sách hỗ trợ tổng thể, trong mấy tháng vừa qua, chính sách ưu đãi lãi suất cho đối tượng doanh nghiệp (DN) đã được ban hành ngày một nhiều hơn. Mỗi ngân hàng (NH) đều dành riêng vài ngàn tỷ đồng cho các chương trình mục tiêu được Chính phủ và NHNN xác định là trọng điểm, để tạo điều kiện cho DN tiếp cận vốn.
Từ những ưu đãi về chính sách hỗ trợ vốn, đến các chính sách gỡ khó đối tượng vay, hỗ trợ thủ tục, giảm lãi suất huy động đầu vào… đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan chức năng tới những DN khó khăn.
Điều đáng nói hơn cả, không ít NH còn đến tận các DN để tiếp thị gói vay lãi suất thấp. Không khó để bắt gặp những câu chuyện DN hào hứng chia sẻ kể về trường hợp của DN được NH cho vay vốn để bán hàng bình ổn giá nhằm ổn định thị trường.
Các chủ DN ở các quận huyện trong thành phố cứ lâu lâu lại được một vài NH đến tận địa bàn xem xét tình hình và cho vay vốn chỉ ở mức 6%/năm trong khi mặt bằng lãi suất chung của thị trường dao động quanh mức 9-10%/năm.
Nhưng nói như thế không có nghĩa những khó khăn của DN đã vơi, những rào cản về vốn giữa DN và NH đã hết. Chính bản thân các chủ NHTM cũng than rằng từ đầu năm đến nay, vốn vào nhiều nhưng ra “bí”. Tăng trưởng tín dụng năm 2013 theo quy định 12% nhưng xem ra khó NH nào đạt được.
Về phía người vay, ngoại trừ một số ít DN có năng lực hấp thụ vốn là dám vay, còn lại hầu hết các DN phản ánh: “NH thừa vốn thật, có cho vay lãi suất rẻ thật nhưng cán bộ tín dụng chỉ tìm kiếm những DN đang có thực lực tốt, không hề gặp khó khăn về vốn. Như vậy, dù Chính phủ đã hỗ trợ bằng nhiều chính sách, dù đã nỗ lực vươn lên, nhưng DN có quy mô nhỏ và vừa khó khăn thực sự vẫn chưa có nhiều cơ hội để tự đứng vững và làm chủ được.
Không ít DN tự hỏi: “Bây giờ phải định nghĩa DN như thế nào mới là tốt, không có nợ xấu để được vay vốn mới? DN thì phải vay, mà đã vay thì phải thế chấp tài sản. Bây giờ NH đòi phải có tài sản thế chấp mới cho vay thì lấy đâu ra tài sản mới để thế chấp? Còn nếu muốn chứng minh được tính khả thi của dự án kinh doanh thì phải tìm được đối tác ký kết, chẳng phải chịu đựng cảnh hàng tồn kho chất đống để phải vay vốn NH...”. Bởi vậy, những chính sách hỗ trợ nghe có vẻ thuận nhưng trên thực tế lại rất khó khả thi.
Một câu chuyện khác cũng thường được nhắc đến trong những lần các gói hỗ trợ lãi suất được bàn thảo là việc vốn chảy đúng chỗ không, hay các NH cứ tranh nhau đổ vốn vào những DN tốt có lợi nhuận cao và những dự án mà chính NH cũng đang mắc kẹt trong vũng lầy nợ xấu.
Là người tham gia trực tiếp vào vòng xoáy vốn, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Maritime Bank, ông Atul Malik thừa nhận, NH hiện nay đang dư thừa vốn nhưng không dễ cho vay bởi hoạt động kinh doanh của NH phụ thuộc vào 4 yếu tố: (1) Chi phí vốn đầu vào – (2) Chi phí vận hành – (3) Khả năng khai thác các hoạt động dịch vụ khác – (3) Lợi nhuận mà NH tính toán.
Hiện nay, đối chiếu với những yếu tố trên, cũng theo ông Atul Malik: (1) Huy động giảm giúp NH có cơ sở chuyển giao lợi ích này cho khách hàng. (2) Từ 2012 nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, NH đặt ra việc tái cơ cấu làm cho chi phí vận hành giảm nên lợi ích này lại một lần nữa chuyển sang cho khách hàng. (3) Các NH đang phát triển rất nhiều dịch vụ kèm theo để gia tăng lợi nhuận và (4) Biên lợi nhuận mà NH đặt ra đã hạ xuống. Vấn đề hiện nay là làm sao DN có thể vay được vốn từ NH chứ chuyện giảm lãi suất đối với các NH không khó.
Bởi thế, để dòng vốn có thể chảy, có lẽ cần nhiều hơn nữa sự công tâm, trách nhiệm và minh bạch của các cơ quan quản lý Nhà nước và những người làm chính sách. Vì thực tế bóc tách một số quy định trong chính sách đều thấy khó khả thi cho NH và DN nếu không có sự vào cuộc của các cơ quan quản lý Nhà nước.
Quan điểm này được TS. Nguyễn Đình Cung thừa nhận khi ông nói rằng, chính sách trong mấy tháng gần đây của Chính phủ đang xử lý "ngọn" thay vì phải xử lý "gốc" của vấn đề nên các gói giải pháp đều không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Nói như ông Cung, cả NH và DN sẽ khó có thể tìm kiếm cơ hội từ những chính sách hiện tại. Theo đó, cứ để thị trường dẫn dắt chứ không phải quan chức dẫn dắt như hiện nay. Nhà nước chỉ tham gia điều hành lãi suất khi nền kinh tế khủng hoảng, chỉ có làm như thế thì cơ hội mới mở ra.
Thiên Kim