Giới hạn cấp tín dụng
Các TCTD là những trung gian tài chính có chức năng chủ yếu là nhận tiền gửi và cấp tín dụng cho khách hàng. Thông qua các cơ chế, chính sách về huy động vốn và cấp tín dụng, các TCTD là kênh dẫn quan trọng nhất trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, nhằm tăng năng suất và hiệu quả, giảm bớt rủi ro của hệ thống các TCTD nói chung và toàn bộ nền kinh tế nói riêng.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, thời gian qua, trường hợp các TCTD cấp tín dụng cho khách hàng tuy về hình thức vẫn đảm bảo thu hồi đầy đủ gốc, lãi nhưng trên thực tế, DN vay vốn sử dụng không đúng mục đích, hoặc đầu tư vốn không hiệu quả, dòng vốn tín dụng thay vì tập trung cho sản xuất kinh doanh đã bị chuyển vào những hoạt động mang tính đầu cơ như: vàng, chứng khoán, bất động sản…
Hiệu quả tín dụng bị giảm, có nguyên nhân từ lỗi con người và lỗi hệ thống. Có thể nói “lỗi con người” đã trở thành một “lỗ hổng” về đạo đức kinh doanh trong quá trình hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động tín dụng cần được chấn chỉnh thường xuyên, nhất là trong giai đoạn tái cơ cấu toàn diện hệ thống các TCTD hiện nay. Ngoài lỗi con người còn có lỗi hệ thống thuộc về các vấn đề như mô hình tăng trưởng, chiến lược, chính sách và quy trình cấp tín dụng tại mỗi TCTD; trình độ của cán bộ tín dụng...
Có thể nói, thời gian qua, việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp, đã khiến các TCTD rất dễ dàng cấp tín dụng cho những hoạt động đầu cơ và giới hạn cấp tín dụng đối với một khách hàng tính trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hoặc thu nhập hợp pháp của một khách hàng cá nhân đã không được quan tâm thỏa đáng.
Trên thị trường tiền tệ, đã có tình trạng một cá nhân có thể vay ngân hàng vài chục tỷ đến trăm tỷ đồng; một doanh nghiệp sản xuất hoặc một công ty chứng khoán có thể vay đến ngàn tỷ đồng từ hệ thống các TCTD. Và hiện tượng một nhóm cá nhân cùng góp vốn thành lập hàng loạt doanh nghiệp, tiến hành mua, bán lòng vòng hàng hóa để có cơ sở vay vốn ngân hàng cũng không phải quá hiếm.
Bên cạnh đó, do trình độ một số cán bộ tín dụng có phần hạn chế, nên dường như nhiều năm qua, việc cấp tín dụng của các TCTD còn phụ thuộc quá nhiều vào tài sản thế chấp của khách hàng vay, còn “mục đích sử dụng vốn vay” và tính “khả thi và hiệu quả” của “dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ….” nhiều khi không được hoặc khó có điều kiện để thẩm định, đánh giá, giám sát chặt chẽ.
Hiện tượng nhiều tổ chức, cá nhân sử dụng đòn bẩy tài chính lớn trong kinh doanh và thực hiện các hành vi đầu cơ hoặc có sự tính toán sai lầm trong dự án kinh doanh; tình trạng sở hữu chéo, lạm dụng đòn bẩy tài chính quá mức để đầu cơ BĐS, vàng, chứng khoán... đều chính là những nguyên nhân góp phần tạo cầu ảo, ảnh hưởng đến sự phát triển thiếu lành mạnh của nền kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả tín dụng, hướng dòng vốn tín dụng vào sản xuất kinh doanh và cũng để cụ thể hóa hơn nữa các điều kiện cấp tín dụng, thiết nghĩ chỉ tiêu giới hạn cấp tín dụng tối đa đối với một khách hàng tính trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hoặc thu nhập hợp pháp, ổn định và thường xuyên của một khách hàng cá nhân cần phải được quan tâm thỏa đáng. Cần phải được quy định cụ thể phù hợp với từng ngành kinh tế, từng loại đối tượng khách hàng trong quy chế cho vay và phải được giám sát chặt chẽ, thường xuyên tại mỗi TCTD.
Tăng trưởng tín dụng để phát triển sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ của mỗi TCTD và của toàn Ngành, nhưng cấp tín dụng phải trên cơ sở chất lượng, hiệu quả tín dụng.
Cần nhận thức và có trách nhiệm cao về hiệu quả tín dụng ngân hàng ở cả 3 góc độ là DN, TCTD, nền kinh tế. Xét duyệt và quản lý một cách khoa học, chặt chẽ giới hạn cấp tín dụng đối với khách hàng là yếu tố quan trọng góp phần tái cơ cấu hệ thống ngân hàng; tái cơ cấu nền kinh tế theo định hướng phát triển bền vững, hiệu quả, ổn định.
Thanh Hương