Hài hòa lợi ích từ hai phía
Đảm bảo quyền lợi người lao động: Yếu tố quan trọng để vào “sân chơi” thế giới | |
95% người lao động Việt Nam lo lắng tới an sinh hưu trí |
Ảnh minh họa |
Nhiều công nhân làm việc trong KCX, KCN tại TP. HCM cho biết, hiện tình trạng một số DN cố tình chỉ sử dụng lao động thời vụ làm việc không thường xuyên để thoái thác một số quyền lợi của người lao động, cũng như trốn đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) vẫn còn tái diễn.
Để minh chứng cho vấn đề này có thể đưa ra rất nhiều ví dụ điển hình như, trường hợp một DN dệt may chỉ tuyển lao động làm việc từ ngày 4 đến ngày 15 hàng tháng, sau đó cho nghỉ, rồi tháng sau lại tiếp tục nhận người đó làm lại công việc này theo kiểu “cứ có việc thì làm, hết việc thì nghỉ”.
Như vậy, mặc dù công việc có thể kéo dài trong một vài năm nhưng thực tế đây vẫn chỉ là lao động thời vụ nên các quyền lợi hầu như không được đảm bảo. Và rõ ràng, DN này sẽ cắt xén được một khoản tương đối vì không phải chi trả thêm các khoản tiền phụ cấp, chế độ ốm đau, tai nạn, BHXH... cho những lao động thời vụ.
Tuy nhiên, theo bà Trần Lê Thanh Trúc, Phó trưởng phòng Việc làm (Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP. HCM – LĐTB&XH), cách làm này của các DN không đúng với quy định của Luật Lao động, đồng thời sẽ là “lợi bất cập hại”, ảnh hưởng đến chính hoạt động sản xuất kinh doanh và quá trình phát triển của DN.
Cụ thể, theo khoản 3 Điều 22 Bộ luật Lao động quy định rõ, DN không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ thai sản, ốm đau, tan nạn...
Vì vậy, DN cần xác định rõ việc giao kết hợp đồng theo một trong các loại thuộc quy định của Luật về thời điểm, thời hạn, tính chất công việc để thực hiện giao kết lao động một cách minh bạch, rõ ràng, tránh vi phạm đến quyền lợi của người lao động và ảnh hưởng đến trách nhiệm, uy tín của bên sử dụng lao động.
Ngoài ra, mâu thuẫn phát sinh giữa DN và người lao động còn xuất phát từ việc chi trả các khoản tiền lương, phụ cấp, trợ cấp không thỏa đáng. Thậm chí là do sự bất cập trong việc giải quyết chế độ sau nghỉ việc cho người lao động tự ý bỏ việc và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, vi phạm thời gian báo trước.
Công ty Pungkook Sài Gòn (KCX Tân Thuận, Q.7) cho biết, có không ít lao động tự ý bỏ việc vì lý do nào đó không báo trước, nếu theo quy định không những không được nhận trợ cấp thôi việc, mà còn phải bồi thường 1/2 tháng lương, bồi thường số ngày vi phạm không báo trước, có thể tiến hành xử lý kỷ luật sa thải....
Trên thực tế, phần lớn người lao động do không hiểu biết và thiếu tôn trọng luật pháp dẫn đến việc tự ý bỏ việc thay vì viết đơn theo đúng quy định. Điều này cũng gây không ít khó khăn cho các DN trong công tác tuyển và sử dụng lao động, ảnh hưởng tiêu cực đến kế hoạch sản xuất kinh doanh, cũng như uy tín DN.
Khi nhìn từ góc nhìn này, đại diện của Sở LĐTB&XH cũng đưa ra khuyến cáo đối với người lao động, nên tìm hiểu và nắm bắt những quy định của Luật Lao động để biết tự bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình cũng như tránh những phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp quyền lợi không đáng có với bên sử dụng lao động.
Ông Nguyễn Quốc Việt, Trưởng phòng An toàn lao động đưa ra ví dụ một công nhân đã ký hợp đồng lao động chính thức với một DN nào đó, vô tình bị tai nạn trong thời gian làm việc nhưng chưa chắc đã được hưởng bồi thường cũng như những chế độ trợ cấp của DN đối với người lao động bị tai nạn.
Bởi muốn xem người công nhân đó có được bồi thường và hưởng trợ cấp hay không, cần phải xác định rõ điều kiện xảy ra tai nạn lao động trong bối cảnh thời gian và không gian nào, có phù hợp hay không?
Thậm chí, đang trong lúc làm nhiệm vụ được phân công nhưng lỗi do công nhân cẩu thả không trang bị đồ bảo hộ, thắt dây an toàn theo quy định dẫn đến tai nạn lao động thì cũng chỉ được nhận một phần trợ cấp, chứ DN không phải chịu trách nhiệm và bồi thường hoàn toàn...
Theo nhận định của các chuyên gia về lao động việc làm, DN muốn phát triển mạnh, ổn định sản xuất kinh doanh thì trước tiên phải chăm lo đời sống người lao động, có chế độ đãi ngộ thoả đáng.
Ngược lại, người lao động cũng cần nâng cao ý thức, tính chuyên nghiệp, trình độ năng lực chuyên môn. Trong quá trình hội nhập quốc tế, nếu DN Việt không làm tốt các chính sách đối với người lao động thì lực lượng này sẽ tự di chuyển đến những nơi có môi trường, điều kiện làm việc tốt hơn.
Đồng thời, lao động trong nước cũng phải đối mặt với thách thức cạnh tranh từ nguồn lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn, tay nghề cao hơn. Vì vậy cả DN và người lao động đều cần phải tự hoàn chỉnh mình.