Huyền thoại con đường tiền tệ
Làm bài dự thi “TÌM HIỂU VỀ TIỀN VIỆT NAM” | |
Ba câu chuyện về tiền - vàng trong lịch sử | |
Hành trình xây dựng niềm tin |
Những đồng tiền đẹp như bức tranh
Sau cuộc Cách mạng Tháng Tám năm1945, chính quyền cách mạng nhận về một hệ thống ngân khố với những kho tàng trống rỗng. Ngày đó, trong kho chỉ vỏn vẹn có 1.230.720 đồng, thì có đến 586.000 đồng là tiền hào rách nát chờ tiêu huỷ và một gánh nợ ngân phiếu chưa trả trị giá 564.367.522 đồng. Bối cảnh khi ấy, đồng tiền đang mất giá ghê gớm. Tiền Ngân hàng Đông Dương tràn ngập thị trường. Tiền đồng, tiền kẽm bị đẩy lùi về nông thôn làm “phận tiền lẻ”. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có đồng tiền độc lập tự chủ. Trong khi đó, quyền phát hành tiền Đông Dương vẫn nằm trong tay người Pháp.
Nhưng thêm vào đó, ngân quỹ còn chịu một tác động lớn khác, khiến tình hình khó khăn lại càng thêm thách thức. Các loại thuế nô dịch cũ được Chính quyền Cách mạng bãi bỏ, nhưng các loại thuế mới chưa kịp đặt ra. Nguồn thu ngân sách quá ít so với nhu cầu chi tiêu ngày một lớn. Thêm vào đó, tiền Quan kim và Quốc tệ mất giá, theo chân quân Tưởng vào tràn ngập thị trường Đông Dương khiến lưu thông tiền tệ những ngày đầu sau Cách mạng thành công vô cùng rối loạn...
Một điều kiện không thể thiếu trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập là phải có được một đồng tiền riêng. Trong bối cảnh đồng bạc Đông Dương còn được đặt dưới sự kiểm soát của Pháp, cộng thêm sự lũng đoạn của các loại tiền do quân Tưởng mang vào, việc chuẩn bị phát hành tiền Việt Nam trở nên một yêu cầu bức thiết.
Đầu tháng 12/1945, theo quyết định của Hội đồng Chính phủ, Bộ Tài chính đã tổ chức dập được tiền 2 hào, 5 hào, 1 đồng bằng nhôm đầu tiên và sau đó là tiền 2 đồng bằng hợp kim đồng, ở mặt phải đồng tiền có hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm nức lòng nhân dân cả nước. Các loại tiền kim loại đầu tiên được dập tại tầng hầm Nhà Bát giác (Viện Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội ngày nay). Tiền được dập trên máy dập tiền mà Pháp vẫn dùng để dập tiền trinh Bảo Đại làm tiền lẻ cho đồng tiền Đông Dương mà ta tịch thu được.
Trước đó, từ tháng 10/1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã huy động được một số họa sĩ (Nguyễn Huyến, Mai Văn Hiến, Nguyễn Đỗ Cung) để lo việc vẽ và in những tờ bạc Việt Nam đầu tiên. Các tờ bạc thể hiện bằng hình ảnh 3 mục tiêu của Cách mạng lúc đó là: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Theo hồi ức của một công nhân: “Tờ bạc đầu tiên là tờ bạc 20 đồng màu vàng, do hoạ sĩ Khanh vẽ. Công tác chụp bức vẽ giấy bạc và ra bản kẽm phải làm việc hết sức bí mật để tránh phá hoại... Ngày mà tờ giấy bạc 20 đồng đầu tiên in ra là ngày vui nhất trên đời anh em chúng tôi. Tất cả cùng nhảy múa, reo hò. Tờ bạc giấy trắng muốt, nền vẽ màu vàng óng, hình của Chủ tịch Hồ Chí Minh in rõ từng nét nhăn, từng sợi râu. Chúng tôi rất sung sướng và cảm động thấy tờ bạc đẹp, hình của Bác đẹp, thật xứng đáng là tờ bạc đầu tiên của nước Việt Nam độc lập!”.
Ngày 6/5/1951 đã trở thành lịch sử, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt ra ngay sau khi thành lập ngân hàng là triển khai phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính, phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa. Chủ đề của bộ tiền tập trung vào các hình ảnh sản xuất, chiến đấu, phản ánh giai đoạn lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc.
Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với bộ tiền hoàn chỉnh đã đánh dấu sự thống nhất và độc lập hoàn toàn về tiền tệ của một nhà nước tự do, dân chủ. Ngân hàng Quốc gia thành lập là một nhân tố rất quan trọng báo hiệu sự trưởng thành của nền kinh tế kháng chiến, chấm dứt thời kỳ phải gắn tài chính với ngân hàng, phải in tiền để chi tiêu, từng bước chuyển sang những nguyên tắc cơ bản của công tác ngân hàng và hoạt động tiền tệ, phục vụ sản xuất và lưu thông…
Nói về những tờ giấy bạc ấy, cố hoạ sĩ Trần Duy từng chia sẻ: “Ngày ấy, đồng tiền Việt Nam có một thứ không làm giả được, vì nó được làm bằng thứ giấy chỉ có vùng kháng chiến mới sản xuất ra, lại in bằng thứ mực thô sơ mà kỹ thuật của Pháp không “học tập” được. Do đó, các họa sĩ không cần phải vẽ cầu kỳ để chống làm giả. Với tâm hồn kháng chiến, các họa sĩ muốn vẽ hình ảnh của những người Việt Nam kháng chiến.
Chẳng hạn như hình ảnh trên tờ giấy bạc 100 đồng do Nguyễn Sáng vẽ. Người ta có thể quên đi tờ bạc 100 đồng mà ghi lại ấn tượng của một bức tranh hoành tráng về toàn bộ cuộc sống kháng chiến, về những con người kháng chiến trên đó. Phải thừa nhận rằng, thời đó cảnh và tâm hồn kháng chiến đẹp như tranh”.
Cố Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến cũng từng chia sẻ: “Chúng tôi nghĩ đơn giản, đây là đồng tiền của một Nhà nước nhân dân, phải thể hiện được tính chất nhân dân bình dị, vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Nam. Hoạ sĩ Nguyễn Sáng là một hoạ sĩ có tâm hồn kháng chiến. Anh vẽ giấy bạc mà như vẽ tranh. Đó cũng là lý do làm cho đồng bạc Việt Nam đẹp”.
Vẻ đẹp đó không riêng người Việt Nam mà cả người nước ngoài cũng thừa nhận. Nhà báo Pháp Jacques Despueeh nói: “Giấy bạc của Việt Minh in bằng một thứ kỹ thuật thô sơ. Nó có nghệ thuật hội hoạ hơn là tiền tệ”.
Có thể thấy, trong những hoàn cảnh vô cùng eo hẹp, chúng ta đã tổ chức in và phát hành được đồng tiền của cách mạng. Những đồng tiền đó chính là những người lính trên mặt trận tiền tệ. Cũng như những chiến sĩ Vệ quốc đoàn, thiếu quần áo, thiếu vũ khí, thiếu cả ăn, nhưng mang ý chí chiến đấu phi thường; những đồng tiền của chúng ta, in bằng giấy rất xấu, mực rất xấu… nhưng có sức mạnh mà không một đồng tiền nào đánh bại được nó, không có thứ kim bản vị nào quý hơn nó, đó là lòng dân.
Những bức “tranh tiền” giản dị với hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo những người nông dân, công nhân đi khắp mọi miền, cùng với niềm tin của nhân dân đã tạo nên sức mạnh chiến thắng mọi thế lực thù địch. Hình ảnh trên tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thể hiện được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, tích cực cùng nhau bảo vệ quê hương, xây dựng đất nước…
Binh chủng đặc biệt
Nguyên Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình từng chia sẻ: “Trong suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Mỹ, lịch sử đã ghi danh những con đường huyền thoại như đường mòn Hồ Chí Minh, đường Hồ Chí Minh trên biển. Bên cạnh những con đường đã đi vào lịch sử dân tộc còn có một con đường huyền thoại khác, tuy thầm lặng nhưng cũng hết sức quan trọng, đó là con đường vận chuyển tiền tệ chi viện nguồn lực tài chính cho chiến trường miền Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta”.
“Để đảm bảo con đường tiền tệ được an toàn, thông suốt, nhiều cán bộ ngân hàng đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ trên các mặt trận. Các thế hệ cha anh với tinh thần kiên trung, bất khuất, mưu lược, sáng tạo vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hiểm nghèo, bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu đã góp phần quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tiến tới thắng lợi 30/4/1975 lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, ông nhấn mạnh.
Tối ngày 19/4/2015, tại Hội trường Thống Nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp UBND TP.HCM; Đài Truyền hình TP.HCM và Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV đã tổ chức tường thuật trực tiếp chương trình nghệ thuật với chủ đề "Huyền thoại con đường tiền tệ" kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng đất nước |
Quả là vậy, suốt giai đoạn “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, chi viện cho chiến trường miền Nam là điều luôn luôn nằm trong tâm thức, tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Chính phủ, mọi cán bộ và đồng bào miền Bắc. Và đòi hỏi này ngày càng trở nên cấp thiết từ giữa thập kỷ 60 của thế kỷ trước, khi Mỹ thất bại trong “chiến tranh đặc biệt”, buộc phải chuyển sang “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và tiến hành mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc. Khi đó, việc đưa viện trợ vật chất vào miền Nam bằng cả 2 con đường: đường Trường Sơn và đường trên biển đều khó khăn hơn trước.
Lúc này, đồng chí Phạm Hùng ở cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách vấn đề kinh tài và chi viện cho miền Nam đã trình lên Bộ Chính trị một quyết định mang ý nghĩa lịch sử, đó là thành lập riêng tại miền Bắc một “Quỹ ngoại tệ đặc biệt”, lấy từ các nguồn viện trợ quốc tế để chi viện trực tiếp cho chiến trường miền Nam.
Tuy thầm lặng nhưng cũng hết sức quan trọng, đó là con đường vận chuyển tiền tệ chi viện nguồn lực tài chính cho chiến trường miền Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta. |
Giữa năm 1965, NHNN đã thành lập tại Cục Ngoại hối - Vietcombank một tổ chức chuyên trách mảng nghiệp vụ thanh toán đặc biệt với danh nghĩa là Phòng B.29. Biên chế của B.29 trong thời gian 10 năm (1965 - 1975) là trên 10 người. Trực tiếp điều hành hoạt động của B.29 là ông Mai Hữu Ích, khi đó là Phó Cục trưởng Cục Ngoại hối kiêm Phó Chủ tịch Vietcombank. Nhân sự của B.29 đều là đảng viên, thành lập một tổ đảng nằm trong Chi bộ Phòng Kế toán và Phòng Ngân quỹ, thuộc Liên Chi bộ Cục Ngoại hối - Vietcombank, trực thuộc Đảng ủy cơ quan NHNN Trung ương.
Để tiến hành các hoạt động của mình như một Ngân hàng Ngoại hối đặc biệt, B.29 cũng có các bộ phận nghiệp vụ chuyên môn về giao dịch, thanh toán, kế toán, ngân quỹ. Từ quỹ này, tiền mặt các loại (chủ yếu là đô la Mỹ và tiền ngụy Sài Gòn) qua nhiều phương thức và bằng những con đường khác nhau đã được vận chuyển vào miền Nam, tập trung đưa về các vùng căn cứ kháng chiến, do các cơ quan ngân tín của Đảng trực tiếp quản lý, điều hành phân phối sử dụng cho các nhu cầu kháng chiến cũng như để mua vũ khí, khí tài và lương thực…
Những thùng sắt cỡ lớn B.29 dùng để vận chuyển tiền váo miền Nam |
Khó có thể lường hết các mức độ gian khổ và khó khăn khi vận chuyển tiền đến điểm nhận cuối cùng. Bằng phương thức AM, tiền từ kho ngoại tệ đặc biệt (cất giữ nghiêm ngặt tại tầng hầm NHNN Trung ương 49 Lý Thái Tổ, Hà Nội do Vietcombank/B.29 quản lý) được chuyển cho đơn vị đặc biệt chuyên phụ trách vấn đề này của Tổng cục Hậu cần Quân đội là C.100 thuộc Đoàn 559, sau đó được đóng thùng đặc chủng và chuyển theo tuyến đường Trường Sơn hoặc đi theo đường biển bằng những chuyến tàu không số, cất giấu dưới hầm tàu 2 đáy trên con đường lịch sử Hồ Chí Minh trên biển. Sang trọng hơn nữa, có lúc tiền còn được chuyển bằng vali ngoại giao…
Ông Lữ Minh Châu, cố Tổng giám đốc NHNN Việt Nam, kể lại: “Chiến trường mở rộng, nhu cầu tiền càng nhiều, càng nhanh càng tốt và phải cung cấp cho nhiều nơi. AM không thể đáp ứng được đủ nhu cầu, phải tìm cách làm tốt hơn. Cách đó không có gì khác hơn là phải vận dụng các nghiệp vụ mua bán và thanh toán quốc tế của ngân hàng và quan hệ nhiều nơi. Phương pháp này chúng tôi gọi tắt là FM, có nghĩa là các phương pháp mới. Chuyển từ AM sang FM tức là chuyển mua bán ngoại tệ tiền mặt trao tay sang mua bán và thanh toán qua các nghiệp vụ ngân hàng.
FM là phương thức sử dụng hình thức chuyển khoản do B.29 tại Hà Nội thực hiện theo yêu cầu của Trung ương Cục miền Nam (N.2683), để hoàn trả tại nước ngoài, chủ yếu là tại cơ sở của ta tại Hồng Kông. Bên nhận chuyển khoản là nhà cung cấp tiền Z Sài Gòn, người đã giao tiền trước cho đường dây hoạt động nội thành của Ban Tài chính đặc biệt trực thuộc N.2683.
Nhà cung cấp tiền Z Sài Gòn là những chủ doanh nghiệp kinh doanh lớn được cách mạng cảm hóa. Họ gửi tiền tại các NHTM ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận với Cách mạng (N.2683), họ rút tiền mặt từ các ngân hàng với lý do để sản xuất kinh doanh, nhưng thực tế là cung cấp hối đoái theo phương thức tiền Z. Sau đó, số tiền họ giao được trả bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Tiền họ trao cho ta được giao tại những nơi quy ước “làm ăn” hoặc tại những vùng giáp ranh, ven đô Sài Gòn - Gia Định, có khi còn xa hơn nữa…
Ông Châu từng chia sẻ: “Việc đó không dễ chút nào. Chúng tôi phải phối hợp với anh Bảy Ích (anh Mai Hữu Ích, Phó giám đốc Vietcombank lúc bấy giờ), phải làm rất nhiều việc khá phức tạp để đảm bảo ăn khớp và an toàn như: chọn và xây dựng địa bàn cả trong lẫn ngoài nước; chọn và “cắm” cán bộ tin cậy, biết ngoại ngữ và thông thạo nghiệp vụ Vietcombank; thực hiện các loại quy ước để hợp đồng thực hiện…”.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, để thắng và “vượt mặt” một đối phương không những mạnh về quân sự, mà còn rất thành thạo về tài chính - tiền tệ, hơn nữa là kẻ khống chế cả hệ thống tiền tệ quốc tế, thì cả AM lẫn FM đều đã được tổ chức như một guồng máy rất tinh vi, liên kết giữa hậu phương với tiền tuyến, có mạng lưới trong nước và quốc tế. Trong đó, vừa vận dụng những nghiệp vụ ngoại hối cổ điển của ngân hàng, vừa kết hợp với những kỹ thuật quân sự, tình báo, mà xuyên suốt những hoạt động đó, là ý chí cách mạng, là niềm tin và lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc.
Tổng kết toàn chiến dịch, số tiền được chuyển từ B.29 vào chiến trường miền Nam là 477.175.670 đô la. Nhìn lại toàn bộ cuộc vận hành của đồng tiền và khối lượng tiền đã phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam. Từ B.29 các dòng tiền đã được vận chuyển vào các “mạch máu” của chiến trường miền Nam, hình thành nên một “binh chủng” - binh chủng tiền, không thể thiếu cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, không chỉ có tấm lòng và của cải của các nước bạn - anh em và những nhà hảo tâm mà còn có cả một bộ máy được tổ chức rất tài tình, tinh vi. Đó còn là cả những ý chí quả cảm và lòng trung thành tuyệt đối của các chiến sĩ trên mặt trận này. Trong đó có không ít người ngã xuống cho sự nghiệp chung của cả dân tộc.
Chiến tranh đã qua đi, quá khứ cũng lùi xa, nhưng chúng ta - những thế hệ hôm nay và mai sau càng phải có trách nhiệm gìn giữ và phát huy tối đa giá trị tinh thần mà cha ông chúng ta đã vun đắp - trao truyền, để dân tộc mãi mãi hoà bình và thịnh vượng; đất nước ngày càng giàu mạnh và phồn vinh. Ôn lại những giá trị lịch sử là điều cần thiết và là việc phải làm, để thế hệ hôm nay càng tự hào hơn về những ngày đã qua, để tiếp bước cha ông, đóng góp và xây dựng cho những thành công trong tương lai...