Kế hoạch đầy hoài bão
Nếu đưa ra đánh giá một cách chung nhất về Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng" mà Chính phủ Việt Nam thông qua gần đây, ông sẽ...?
Đề án đã “kê đơn thuốc” với các biện pháp cụ thể cho các nhóm TCTD khác nhau. Các mục tiêu bao gồm phát triển một hệ thống tài chính hiện đại, hoạt động an toàn, vững chắc và hiệu quả phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Từ các cách thức để tăng cường sức mạnh cho các TCTD, cả về mặt tài chính và hoạt động, thông qua việc bán các tài sản nợ xấu cho Công ty Mua bán tài sản và nợ (Debt and Asset Trading Corporation) hoặc các công ty tư nhân, chuyển đổi vốn cổ phần hoặc thanh lý nợ xấu; thanh lý nợ xấu phát sinh từ các khoản (cho vay chỉ định) bằng ngân sách cho đến vấn đề tăng vốn điều lệ; giảm tỷ lệ tín dụng/tiền gửi xuống mức ít nhất 85% vào năm 2015; tăng cường minh bạch thông tin; các DNNN rút dần vốn đầu tư trong lĩnh vực tài chính; hạn chế kiểm soát của cổ đông chi phối và cải thiện chất lượng đội ngũ quản lý và các thành viên hội đồng...
Có thể nói, kế hoạch trên là rất hoài bão và có nhiều điểm tốt. Nó đã đưa ra một khung cho cải cách khu vực tài chính, bao gồm tăng cường sức mạnh cho các kiểm soát và quản lý nội bộ cũng như hạn chế quyền kiểm soát của các cổ đông chi phối.
Vậy những vấn đề chính còn tồn tại, còn thiếu hoặc cần làm rõ hơn trong Đề án này là gì, thưa ông?
Theo tôi, cần làm rõ các chi tiết của việc triển khai.
Thứ nhất, việc nhấn mạnh vai trò của các cổ đông phải gánh chịu các khoản lỗ đầu tiên trong tiến trình tái cấu trúc ngân hàng chưa được như mong đợi. Bởi đây là một thành tố quan trọng mà nhiều kế hoạch tái cấu trúc ngân hàng của các nước đã đề cập đến. Và đây cũng là động lực để đảm bảo rủi ro đạo đức được kiểm soát trong tiến trình tái cấu trúc cũng như trong tương lai.
Thứ hai, kế hoạch chưa có sự phân biệt rõ giữa vấn đề thiếu hụt thanh khoản và mất khả năng thanh toán của các ngân hàng. Điều này là rất khó khăn nhưng vẫn phải nỗ lực tiến hành để có được sự tiếp cận khái niệm cơ bản đối với quyền lợi và trách nhiệm của các đối tượng trong quá trình tái cấu trúc.
Thứ ba, Đề án gửi đi những thông điệp còn chưa rõ ràng về việc liệu Việt Nam có cố gắng để đưa vào áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế hay không. Đây là điều rất quan trọng để tạo lòng tin cho các thị trường. Ví dụ như vấn đề: tỷ lệ nợ xấu, kế toán, phân loại khoản vay, công bố thông tin và nhiều vấn đề khác.
Cuối cùng, có lẽ cần phải có sự thay đổi cơ bản trong tư duy về vai trò của Nhà nước trong trung gian tài chính. Liệu sở hữu Nhà nước trong hệ thống ngân hàng có đang gây ra chi phí tài chính lớn hơn so với những lợi ích mà đáng ra nó phải mang lại được?
Đề án đưa ra định hướng “nâng cao vai trò, vị trí chi phối của các NHTM Nhà nước”. Ông có cho rằng, điều này là thích hợp?
Nếu các NHTM Nhà nước tham gia vào các hoạt động mang tính thương mại thì cần phải tuân theo các nguyên tắc chung về kỷ luật, tính minh bạch, giải trình và giám sát như là các NHTM tư nhân. Một ví dụ cụ thể là, như chúng ta hiểu theo quy định hiện nay, NHNN đại diện cho Chính phủ thực hiện quyền sở hữu Nhà nước tại các NHTM Nhà nước thông qua việc cử người tham gia Hội đồng quản trị. Tuy nhiên, NHNN với vai trò là cơ quan giám sát hệ thống ngân hàng nên chịu trách nhiệm thanh tra giám sát những ngân hàng này. Quy định như vậy có thể tạo nên những xung đột về lợi ích.
Nếu các NHTM Nhà nước tham gia vào việc cho vay chính sách hay cho vay theo chỉ định thì cũng không sao cả. Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu các tổ chức tín dụng khác có thể làm được với mức chi phí thấp hơn và hiệu quả hơn không? Và liệu có khoản chi phí hỗ trợ nào liên quan tới hoạt động này không và nó có được tính vào ngân sách nhà nước một cách minh bạch hay không? Tương tự, nếu Nhà nước là người sở hữu cả doanh nghiệp và ngân hàng, thì liệu có đủ khoảng cách giữa người vay và người cho vay để tạo nên một môi trường kinh doanh ngân hàng lành mạnh, hay với việc sở hữu như vậy, lần nữa lại tạo nên sự xung đột về lợi ích? Vì có thể điều đó sẽ dễ làm cho người dân có cảm giác là NHTM Nhà nước đang “cho vay theo chỉ định” hay theo “quan hệ”.
Theo ông thứ tự ưu tiên các khâu trong đề án nên như thế nào? Trước mắt nên tập trung vào đâu?
Phần lớn các cuộc tái cấu trúc được tiến hành khi các vấn đề trong hệ thống ngân hàng đã trở nên cấp bách. Nhiệm vụ đầu tiên trong những tình huống như vậy là duy trì sự ổn định của hệ thống, để đảm bảo thanh khoản không bị thiếu hụt và trung gian tài chính không bị gián đoạn. Các vấn đề cần giải quyết kịp thời để ngăn chặn lây lan giữa các ngân hàng và để giảm bớt các quan ngại hệ thống. Tóm lại, ý tưởng cơ bản là cần khôi phục niềm tin vào hệ thống ngân hàng và ngăn chặn tiền gửi rút ra. Điều này về cơ bản Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua mặc dù những rủi ro vẫn còn.
Công việc mà Chính phủ và NHNN hiện nay đang tiến hành là giải quyết các vấn đề tại các ngân hàng yếu kém và thực tế đã đạt được một số tiến bộ. Nhưng tiến trình này cần được thúc đẩy nhanh hơn. Hệ thống ngân hàng còn chịu nhiều áp lực một khi những ngân hàng yếu kém trong hệ thống chưa được giải quyết triệt để. Một lĩnh vực khác cần thúc đẩy là việc công nhận, chấp nhận và đưa ra giải pháp đối với các khoản nợ xấu. Một số vấn đề nữa liên quan đến tăng trưởng tín dụng thấp - dù NHNN đã có các nỗ lực giảm lãi suất - có thể là do các nhà cho vay (ngân hàng - PV) đang cẩn trọng hơn với đối tượng khách hàng vay. Sự cải thiện trong các tiêu chuẩn cho vay là điều đáng hoan nghênh. Nhưng những bất định về chất lượng và tình trạng của các nhà đi vay thì lại là điều không nên.
Nâng cao chất lượng quản trị trong quá trình tái cấu trúc là điều rất quan trọng. Để thúc đẩy yếu tố quản trị tốt hơn theo ông cần làm gì?
Đề án tái cấu trúc có rất nhiều ý tưởng hay trong đó. Vấn đề bây giờ là việc thể hiện quyết tâm chính trị và triển khai nó như thế nào.
Trong vấn đề quản trị, việc NHNN đang cố gắng cải thiện công tác quản trị và sáp nhập các ngân hàng yếu kém. Các ngân hàng này cần được hỗ trợ chặt chẽ để tiến hành tái cấu trúc nhằm cải thiện khả năng thanh khoản, khả năng thanh toán và hoạt động của mình.
Bên cạnh đó, cả các NHTM Nhà nước và NHTMCP, cũng cần thiết phải xác định rõ tình hình tài chính thực tế của họ và các chỉ số tài chính cũng cần được phân loại rõ ràng. Nếu phát hiện thiếu sót thì cần triển khai các bước cần thiết để đảm bảo các vấn đề này được giải quyết ngay thông qua các kế hoạch hành động. Bản thân các ngân hàng cũng cần tự tăng cường công tác quản trị, quản lý và hoạt động của mình; giảm sở hữu chéo và cho vay theo mối quan hệ, cho vay theo nhóm lợi ích; tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình; tăng cường các tiêu chuẩn cho vay và nhanh chóng thiết lập các hệ thống giám sát và quản lý rủi ro nội bộ.
Và NHNN cần nhanh chóng tăng cường mức độ giám sát chung đối với hệ thống tài chính. Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP) mà Chính phủ đã nhất trí tham gia với IMF và WB sẽ là đầu vào hữu ích cho những nỗ lực này.
Xin cảm ơn ông!
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình: Chính phủ và NHNN không “bao cấp” toàn bộ cho tái cơ cấu. Tổn thất và chi phí trong quá trình xử lý các TCTD yếu kém cần được đảm bảo ở mức thấp nhất và được chia sẻ hợp lý giữa các bên (Nhà nước, chủ sở hữu, nhà đầu tư và người gửi tiền) theo quy định của pháp luật. Trong đó, chủ sở hữu ngân hàng phải chịu trách nhiệm đầu tiên và cuối cùng về những tổn thất xảy ra. Lợi ích của Nhà nước, tài sản của nhân dân, do đó sẽ phải được bảo vệ tốt nhất. |
Hồng Quân thực hiện