Kênh dẫn vốn hiệu quả
Điều tiết nguồn vốn
Nhiều DN Việt Nam chia sẻ rằng, khi nền kinh tế chưa có TTCK, các DN Việt Nam không có nhiều cơ hội lớn mạnh như bây giờ. Bởi tính chất của chu kỳ kinh doanh nên vốn tạm thời nhàn rỗi trong các DN là rất lớn, bên cạnh, còn có một lượng vốn lớn nằm rải rác trong dân chưa được huy động. Tất cả những tiềm năng này chỉ có thể phát huy được hiệu quả khi TTCK ra đời.
Thừa nhận điều này, ông Võ Trường Thành, Chủ tịch HĐQT Công ty Gỗ Trường Thành chia sẻ, trước khi có TTCK, việc tìm vốn của DN phần lớn dựa vào mối quan hệ vay mượn lẫn nhau hoặc vay vốn NH. Khi ấy, các DN tư nhân trong nước chỉ có thể kinh doanh quy mô nhỏ lẻ chứ không lớn mạnh như bây giờ.
“Còn nhớ, khi TTCK ra đời với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ mã quản lý hữu hiệu, với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi, lúc đó chúng tôi mới có thể dễ dàng sử dụng nguồn tiết kiệm của người dân. Đây là tác nhân kích thích ý thức kinh doanh và tạo thói quen đầu tư lớn trong cộng đồng DN”, ông Thành chia sẻ.
Cũng kể về nền kinh tế thiếu TTCK, một lãnh đạo CTCP Đầu tư và Kinh doanh nhà (Intresco) cho biết, trước đây, khi nhu cầu huy động vốn để phát triển dự án của các DN bất động sản (BĐS) trở nên cấp bách, thì mặt bằng lãi suất cho vay luôn ở mức cao, khiến các DN luôn gặp khó khăn trong việc đáp ứng nguồn cầu mới.
Trước tình hình đó, nhiều DN BĐS trông chờ vào một kênh huy động vốn hiệu quả đó là TTCK. Điều đó giải thích vì sao ngay khi TTCK ra đời, các DN BĐS ồ ạt niêm yết vì ai cũng nhận thức được TTCK là một kênh dẫn vốn hiệu quả nhất trong mọi thời điểm.
Thành công lớn nhất của Intresco lúc bấy giờ là cơ cấu lại danh mục đầu tư, thoái vốn ở các dự án có khả năng thu lời thấp và tập trung triển khai những dự án thuộc phân khúc thị trường tiềm năng từ cuối năm 2009. Trong đó, những dự án đang huy động vốn để triển khai có thể kể đến là: cao ốc 83 Lý Chính Thắng - quận 3, cao ốc 146 Nguyễn Văn Trỗi -223 Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận và khu dân cư Long Thới – quận Nhà Bè.
“Ngay thời điểm huy động được vốn để triển khai dự án, năm 2009, công ty này đã đạt doanh thu và lợi nhuận lần lượt tăng 22% và 43% so với năm trước”, vị lãnh đạo trên nói.
Theo ghi nhận của TS. Đinh Thế Hiển, xét về thị trường tiền tệ Việt Nam thời điểm năm 2000, trong xã hội phần lớn chỉ có các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi như: quỹ bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập thể… Một phần vốn của các quỹ này được gửi vào ngân hàng để thực hiện việc thanh toán, phần còn lại, những người quản lý quỹ luôn tự hỏi làm thế nào cho vốn của họ có khả năng sinh lãi nhiều nhất và vừa an toàn vừa có tính tạm thời…
Ngược lại, DN cần vốn thì không thể tìm kiếm trực tiếp từ các quỹ đầu tư hay nguồn tiền nhàn rỗi nêu trên. Tất cả những băn khoăn đó chỉ được giải quyết khi TTCK ra đời. Do vậy, không thể phủ nhận đây đã trở thành một kênh điều tiết vốn hiệu quả nhất đối với nền kinh tế.
TTCK ra đời, tạo đột phá về dòng tiền đầu tư |
Không bao giờ lỗi thời
Từ năm 2000 trở về trước, các DN Việt Nam ít nhận được vốn đầu tư từ các nước phát triển. Đến nay, TTCK có thể cho phép bất cứ ai, ở nơi nào trên thế giới mua một loại cổ phiếu của bất kỳ một công ty nào mà họ thích. Từ đó hình thành mối liên hệ tiền tệ quốc tế, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển nguồn vốn giữa các nước, thực hiện quan hệ vay mượn lâu dài toàn cầu, tạo điều kiện cho việc hoà nhập nền kinh tế thế giới. Chưa kể, TTCK còn là công cụ hữu hiệu để Nhà nước kịp thời điều tiết nguồn vốn trên thị trường.
Điều đó lý giải vì sao khi trao đổi với một số nhà phân tích, họ đều khẳng định, vai trò của TTCK sẽ không bao giờ “bão hòa”, ngược lại, ngày càng quan trọng hơn. Đây cũng chính là thước đo cho sự phát triển đồng bộ của một nền kinh tế. Nếu không có TTCK, các DN trong nước vẫn là những DN sống trong “ao làng”, lỗi thời và cục bộ.
Lại nói đến dòng vốn ngoại, TTCK Việt Nam là nơi duy nhất để trước đây, bây giờ và sau này thu hút được dòng vốn này. Lấy thời điểm hiện tại làm ví dụ, nhằm đẩy nhanh tiến độ tái cấu trúc, khung chính sách cũng đang từng bước được hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tế và khả năng tiếp cận của dòng vốn ngoại đến những hàng hóa có chất lượng (được Nhà nước cung ra thị trường thông qua các đợt IPO và bán vốn) theo đó ngày càng được rút ngắn và thuận tiện hơn.
Đây sẽ là những yếu tố giữ chân và thu hút thêm dòng vốn ngoại. Sắp tới đây, các DN có thể kỳ vọng nhiều nhất vào dòng tiền từ các NĐT Nhật và châu Âu.
Theo thống kê của Công ty chứng khoán VDSC, dòng vốn ngoại đến từ Nhật và châu Âu (đặc biệt là từ Đức) hiện chiếm tỷ trọng lớn trên TTCK Việt Nam, lần lượt là 23% và 18%. Các quốc gia này cũng đang có kế hoạch thực hiện kích thích kinh tế trong năm 2015, trong đó NHTW châu Âu (ECB) tung gói kích thích trị giá ít nhất 1,1 nghìn tỷ euro (gần 1,3 nghìn tỷ USD), đồng thời giữ nguyên mức lãi suất thấp kỷ lục 0,05% và NHTW Nhật Bản mở rộng gấp đôi quy mô gói kích thích từ 50.000 tỷ Yên lên 80.000 tỷ Yên. Với điều kiện vĩ mô ổn định và đang từng bước cải thiện, giới chuyên môn kỳ vọng Việt Nam sẽ là điểm đến của nguồn vốn này trong năm 2015 và những năm sau đó.
Đánh giá một cách tổng thể, ông Ngô Thế Triệu, người điều hành Quỹ Đầu tư Năng động Eastspring Investments Việt Nam (ENF) khẳng định, TTCK Việt Nam có quy mô chưa lớn, số lượng NĐT tham gia chưa nhiều, nên sự khác biệt giữa các nhóm NĐT chưa bộc lộ rõ, điều này cũng là một thách thức trong việc thành lập quỹ. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam vẫn luôn tạo ra cơ hội cho nền kinh tế.
Tóm lại, khi DN cần vốn để mở rộng quy mô sản xuất họ có thể phát hành chứng khoán, vào thị trường để huy động vốn. Đây là phương thức tài trợ vốn qua phát hành và lúc đó, nguồn vốn của DN tăng lên. Một điều thuận lợi nữa, khi DN chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, các DN có thể dự trữ chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và chúng sẽ được chuyển nhượng thành tiền khi cần thiết thông qua TTCK. Ngoài ra, khi DN niêm yết trên TTCK, có nghĩa là đã có chữ tín đối với công chúng đầu tư.
Như vậy các CTCK sẽ là tác nhân kích thích giúp DN tạo vốn nhanh chóng hơn. Và khi TTCK càng nhiều hàng hóa, sẽ thu hút thêm nhiều dòng tiền, thanh khoản tăng, tạo ra một triển vọng bền vững…