Khi nông dân làm việc trong phòng máy lạnh
Ông Sergiy Zorya |
Ông kỳ vọng: Tăng trưởng nông nghiệp sẽ chấm dứt mười năm suy giảm để quay lại với mức 3% đến 3,5%/năm. Người trẻ ở nông thôn đang khao khát có được mức sống cao hơn. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam cần theo hướng “tăng giá trị giảm đầu vào”, phải thay đổi hình ảnh và nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở đổi mới sáng tạo để đến một ngày nào đó, thanh niên nông thôn không phải ra đồng, mà họ sẽ làm việc trong phòng máy lạnh.
Cảm nhận của ông khi tới Việt Nam?
Trước khi đến Việt Nam, tôi đã tìm hiểu nhiều về đất nước và nền nông nghiệp ở đây, bởi trước đó, tôi đã làm việc tại nhiều quốc gia có liên quan tới nông nghiệp của Việt Nam như Thái Lan, Philippines, Indonesia…
Tôi sinh ra ở Ucraine, một quốc gia có chế độ chính trị, xã hội cũng khá giống Việt Nam, nên khi đến đây, tôi thấy khá quen và tôi nghĩ tôi đã thâm nhập khá nhanh. Tuy nhiên, ở đất nước tôi là những cánh đồng bát ngát, trên đó là máy cày máy gặt, nhưng ở Việt Nam, tôi thường thấy những mảnh ruộng nhỏ xen giữa bờ vùng bờ thửa.
Sản xuất nông nghiệp ở Ucraine có năng suất và lợi nhuận không cao so với nhiều nước trên thế giới, mức thu được từ mỗi ha chỉ khoảng 70-80 USD. Nhưng người nông dân trên đất nước tôi bình quân có tới 1000 ha, như vậy họ thu được 7000-8000 USD mỗi vụ.
Ở Việt Nam, mức lợi nhuận có thể tới 200 tới 300 USD/ha, nhưng nông dân Việt Nam chỉ có 1 ha/người nên thu nhập của họ cao nhất cũng chỉ vậy mà thôi. Vậy nên khi chỉ có 10% người dân nông thôn làm nông nghiệp thì nông dân Việt Nam sẽ giàu, chứ nếu có tới 50% người dân nông thôn làm nông nghiệp như hiện nay thì họ sẽ nghèo.
Nông nghiệp Việt Nam đã có tiến bộ vượt bậc trong 1/4 thế kỷ qua, Việt Nam đã được coi như “câu chuyện thành công” về an ninh lương thực. Tuy nhiên, hiệu quả, chất lượng sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam chưa được ấn tượng như thành tích về năng suất, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản.
Cách thức kinh doanh nông nghiệp - là điều kiện thiết yếu để hoàn thành khát vọng thịnh vượng cho ngành nông nghiệp Việt Nam |
Vì sao ông và các chuyên gia WB lại cho rằng, tăng trưởng nông nghiệp sẽ chấm dứt mười năm suy giảm để quay lại với tốc độ phát triển 3-3,5%/năm?
Việt Nam đang có những cơ hội đầy hứa hẹn trên các thị trường nông sản cả trong và ngoài nước. Nhưng để cạnh tranh hiệu quả, thì đòi hỏi người nông dân và DN phải có khả năng đem lại các sản phẩm đáng tin cậy và được đảm bảo về chất lượng. Nhìn vào mô hình tăng trưởng thì rõ ràng các bạn vẫn còn nhiều dư địa, nhưng để tận dụng được, đòi hỏi những thay đổi về chính sách cách đầu tư. Nếu không điều chỉnh thì đột biến sẽ khó xảy ra.
Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp Việt Nam cần “tăng giá trị, giảm đầu vào”. Nghĩa là phải tạo thêm giá trị kinh tế - nâng cao phúc lợi cho nông dân và người tiêu dùng - nhưng sử dụng ít tài nguyên, nhân công và đầu vào trung gian hơn. Tăng trưởng sẽ chủ yếu dựa trên nâng cao hiệu suất, đổi mới sáng tạo, đa dạng hóa và nâng cao giá trị gia tăng.
Ông có cho rằng, việc người nông dân Việt Nam sẽ làm việc trong phòng máy lạnh là viễn cảnh xa?
Nó là tương lai gần mà các bạn phải đạt được. Tôi biết cách đây 10 năm, với mỗi ha, hàng năm người nông dân Việt Nam phải mất 100 ngày ra đồng làm ruộng. Đến nay, ở đồng bằng sông Hồng, số ngày làm việc trung bình hàng năm trên một ha ruộng là 60 ngày; còn ĐBSCL là 20 ngày làm việc/năm. Trong khi đó, ở Thái Lan, số ngày làm việc trực tiếp trên đồng chỉ có 5 ngày/ha/năm.
Sản xuất nông nghiệp đang hướng đến cơ khí hóa và tự động hóa, máy móc đang thay thế dần sức lao động của con người. Với sự thay đổi như vậy, trong tương lai, người ta sẽ không nhất thiết phải ra đồng làm việc trực tiếp. Theo đó, số giờ ra đồng ruộng của người nông dân ít đi, và người nông dân sẽ làm dịch vụ liên quan như tài chính nông nghiệp, hỗ trợ nông nghiệp…
Ở các nước thu nhập thấp thì hơn 90% số ngày làm việc của nông dân là trên đồng ruộng, và chỉ 3% nông dân làm công nghiệp nông nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ có 21% số nông dân trực tiếp làm việc trên đồng, 13% làm công nghiệp nông nghiệp và 66% làm dịch vụ.
Theo ông, đâu là hướng ưu tiên cho phát triển nông nghiệp ở Việt Nam?
Trước hết, tôi xin lưu ý rằng thói quen ăn uống và xu hướng chi tiêu cho bữa ăn của người dân thế giới và cả người Việt Nam đã thay đổi rất nhiều, với lượng lương thực giảm đi nhưng lượng thực phẩm chất lượng cao tăng lên.
Tôi nghĩ là không có chính sách cụ thể để tạo ra đột biến ngay, nhưng có thể có 2 nhóm chính sách: Thứ nhất là nhóm liên quan đến sử dụng đất, làm thế nào để người nông dân có đất nhiều hơn, và nên chuyển đất từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang loại nông sản có giá trị cao; Thứ hai là chính sách liên quan tới đầu tư công cho nông nghiệp. Nếu thay đổi được hướng đầu tư, tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam sẽ thay đổi.
Với thực trạng của Việt Nam hiện nay, ông nghĩ chúng tôi có nên chủ động giảm diện tích trồng lúa, và nếu thế, liệu có đáng lo cho an ninh lương thực trong tương lai?
Như tôi đã nói, nhu cầu lương thực cho từng bữa ăn cho từng gia đình đã giảm đi. Chúng tôi cho rằng sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi về sử dụng đất nông nghiệp. Chẳng hạn, có thể chuyển đổi đến một phần ba diện tích đất trồng lúa nước hiện nay sang các mục đích nông nghiệp khác.
Đất trồng lúa bị nhiễm mặn sẽ được chuyển đổi để nuôi trồng thủy sản. Ở các vùng duyên hải và gần các địa bàn nhạy cảm về sinh thái, diện tích đất trồng lúa sẽ tiếp nhận thêm nhiều vai trò đa chức năng khác, như duy trì hoặc khôi phục đa dạng sinh thái và hỗ trợ du lịch sinh thái…
Vậy nên cho dù diện tích trồng lúa giảm xuống, Việt Nam vẫn duy trì được quy mô sản xuất với các mức thặng dư lớn để xuất khẩu các sản phẩm chất lượng cao hoặc đặc sản, đem lại lợi nhuận cao hơn cho nông dân và DN.