Khó khăn hiện nay cần “bàn tay” Nhà nước
Tại phiên họp thường kỳ vừa qua, Chính phủ vẫn kiên định mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức 7-8%, bảo đảm tăng trưởng kinh tế khoảng 6%. Theo ông, hai mục tiêu này liệu có mâu thuẫn?
Ông Cao Sỹ Kiêm |
Theo tôi chính điều đó càng khiến Chính phủ phải quyết tâm hơn, nỗ lực hơn trong việc điều hành. Thực ra, mục tiêu tăng trưởng khoảng 6%, đã giảm so với mục tiêu đề ra trước đây là khoảng 6-6,5%. Tuy nhiên, để đạt được mức 6% cũng đòi hỏi một sự quyết tâm, nỗ lực rất lớn. Nhưng với diễn biến lạm phát trong những tháng vừa qua, chúng ta hoàn toàn có thể đưa lạm phát về thấp hơn nhiều so với mức 7-8% trong năm nay. Tuy nhiên, nếu kiềm chế lạm phát ở mức thấp như vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Bởi nếu để tăng trưởng thấp quá dưới 5% sẽ ảnh hưởng đến vấn đề an sinh xã hội, công ăn việc làm cho người lao động, từ đó sẽ gây ra nhiều hệ lụy về mặt xã hội.
Chính vì vậy, Chính phủ quyết tâm kiềm chế lạm phát ở mức dưới một con số và vẫn đảm bảo tăng trưởng khoảng 6%.
Việc giảm lãi suất vừa qua là nhằm mục tiêu này, thưa ông?
Việc giảm lãi suất vừa qua là tất yếu. Bởi lạm phát giảm xuống thì lãi suất cũng giảm. Thứ nữa, hiện mặc dù lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp đã hạ nhiều song vẫn còn khá cao, gây khó khăn cho sản xuất - kinh doanh. Sản xuất - kinh doanh gặp khó quay trở lại ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng, khiến nợ xấu có nguy cơ tăng cao. Vì vậy, cần phải giảm lãi suất về mức hợp lý để thúc đẩy sản xuất - kinh doanh. Song muốn giảm lãi suất xuống thì ngoài căn cứ vào lạm phát, ngoài phối hợp các chính sách ra thì phải giải quyết triệt để những yếu kém trong hệ thống ngân hàng, đặc biệt là vấn đề nợ xấu.
Khu vực bán hàng điện tử, điện máy vắng khách (Ảnh: ST)
Theo ông cần phải làm gì để tăng khả năng hấp thụ vốn của DN?
Đúng là hiện doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa do sức cầu của thị trường yếu; hàng tồn kho vì thế tăng cao. Chính vì vậy trong bối cảnh hiện nay không thể thiếu vai trò hỗ trợ của Nhà nước. Tôi cho rằng việc Chính phủ triển khai các giải pháp miễn, giảm thuế; gia hạn thời gian nộp thuế cộng với các giải pháp nhằm khơi thông thị trường; kích thích tổng cầu của nền kinh tế... là bước đi đúng để thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phục hồi.
Như ông nói muốn hạ lãi suất cần giải quyết tốt vấn đề nợ xấu của các ngân hàng. Vậy theo ông, Nhà nước có nên đứng ra mua lại nợ xấu?
Một trong các giải pháp xử lý nợ xấu là đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ. Hiện NHNN đã có chủ trương cho các ngân hàng mua lại nợ của nhau. Tuy nhiên, cũng cần hết sức lưu ý đến “sức khỏe” của những ngân hàng mua nợ. Nếu không cẩn thận sẽ lại đổ nợ xấu của anh này sang cho anh khác. Kết quả là không giải quyết được gì. Do đó, cần phải có tiêu chí rõ ràng. Ngân hàng nào được mua nợ và mua như thế nào. Bên cạnh đó, không phải chỉ có các ngân hàng mua bán nợ với nhau mà các ngân hàng có thể bán nợ cho các công ty mua bán nợ, cho các đối tác nước ngoài. Thậm chí Nhà nước cũng phải tham gia nếu cần thiết.
Hiện nay cứ mỗi lần các ngân hàng công bố lợi nhuận, dư luận lại cho rằng ngân hàng lãi lớn trong khi doanh nghiệp khó khăn. Ông bình luận gì về vấn đề này?
Theo tôi, đừng nhìn vào con số tuyệt đối để đánh giá ngân hàng lãi nhiều hay lãi ít mà phải căn cứ vào tỷ lệ lãi trên tổng tài sản (ROA) hoặc tỷ lệ lãi trên vốn chủ sở hữu (ROE). Rõ ràng, hiện mức vốn chủ sở hữu của một ngân hàng thấp nhất cũng lên tới 3.000 tỷ đồng; tổng tài sản hàng chục, thậm chí hàng trăm nghìn tỷ đồng nên lãi có thể lên đến vài trăm tỷ đồng; trong khi doanh nghiệp có mức vốn chủ sở hữu chỉ vài chục tỷ đồng thì lãi ít cũng là điều dễ hiểu.
Thứ nữa, cần phải xem xét mức lãi ấy của các ngân hàng xuất phát từ chênh lệch đầu vào, đầu ra của tín dụng hay là lãi từ các dịch vụ khác. Bởi bên cạnh hoạt động tín dụng, các ngân hàng còn có nhiều hoạt động kinh doanh, dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, dịch vụ thanh toán, dịch vụ thẻ...
Quan trọng hơn, do ngân hàng là một trung gian tài chính, nhận tiền gửi để cho vay nên càng phải đảm bảo hiệu quả hoạt động. Các ngân hàng có hoạt động hiệu quả mới hỗ trợ tốt cho nền kinh tế được. Còn ngược lại nếu các ngân hàng họat động không hiệu quả, thua lỗ thì rủi ro là rất lớn. Nên thu nhập của nó cũng phải cao hơn mặt bằng chung là dễ hiểu.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý, các con số lãi mà các ngân hàng công bố mới là con số tạm tính, bởi họ mới tính trên cơ sở doanh số cho vay ra. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro. Chẳng hạn một món vay kỳ hạn 3 năm, có nghĩa 3 năm sau ngân hàng mới thu nợ. Có thể hôm nay tính lãi như thế, nhưng 2 năm nữa, người vay không trả được nợ, thì lúc đó ngân hàng phải lấy vốn của mình mà bù vào. Đó là lý do, nhiều ngân hàng đến cuối năm mới công bố lỗ.
Cũng không loại trừ việc một số ngân hàng công bố lãi để lên sàn, để phát hành cổ phiếu, nâng giá trị cổ phiếu... Vì vậy, tôi cho rằng cần kiểm soát chặt chẽ việc công bố lợi nhuận của các ngân hàng.
Xin cảm ơn ông!
Quang Cảnh thực hiện