Làng bên sông
Ảnh minh họa |
Thú hơn cả là những khi mùa lũ về, nước phù sa đỏ ngầu dâng ngập đến cả sân nhà và bọn trẻ chúng tôi vẫn hay chơi trò gấp thuyền giấy thả trôi sông.
Làng có hơn 200 hộ dân, với cái tên chính thức là An Hà hẳn hoi, vậy nhưng người dân trong làng, cũng như mọi người trong vùng vẫn thường gọi bằng cái tên nôm đó là: Làng Chài! Sở dĩ là như vậy vì nơi đây tập trung chủ yếu là những người làm nghề chài lưới.
Theo tôi được biết qua lịch sử của làng thì, làng tôi được hình thành cũng đã vài trăm năm và mới đầu chỉ là một vạt đất bồi, cao ráo rộng rãi, bằng phẳng được những người thuyền chài từ tứ xứ giang hồ neo thuyền lên dựng lều lán làm nơi trú ngụ mỗi khi ngơi nghỉ.
Mới đầu chỉ là chục túp lều, về sau số lượng tăng lên qua năm tháng do mọi người dân chài lưới thấy mảnh đất này “định cư” có vẻ thuận lợi nên họ dắt díu nhau về đây ngày một đông hơn. Theo như nội tôi kể lại thì thời ông, bà về đây làng đã khá trù phú khi có đến gần trăm nóc nhà và dải đất bồi đã được lập làng kín phân nửa. Ông bà nội tôi cũng là dân chài nay đây mai đó và mãi đến khi định cư tại nơi bến sông này mới sinh ra bố tôi và mấy người cô, bác…
Đến đời tôi thì làng đã không còn có đủ đất nữa để mà những nóc nhà mới được “sinh ra”. Mới đầu khi lập làng thì đều là dân tứ xứ không có họ hàng gì với nhau. Thế nhưng, trải qua mấy trăm năm thì sự khăng khít quan hệ lại trở nên thân thiết, vì các thế hệ con, cháu sinh ra sau đều vẫn ở tại làng với các gia đình thành viên nhỏ được tách ra khi họ xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái…
Rồi nữa, việc con cái nhà này yêu thương rồi lấy con cái nhà kia cũng làm cho cả làng dần dần “có họ” với nhau hết. Chẳng vậy mà, hễ nhà ai có việc ma chay, cưới xin thì hầu như cả làng phải đến để chia buồn, chúc mừng và ăn cỗ.
Khi “lập nghiệp” tại làng, chỉ một ít hộ dân còn làm nghề chài lưới bấp bênh, mà đại đa số đã chuyển hẳn sang công việc trồng trọt, làm nghề phụ và chăn nuôi, buôn bán. Nhà có đất thì trồng ngô, khoai, đậu đỗ. Nhà không có đất thì chăn nuôi lợn gà, chế biến đậu phụ. Không ít nhà vào trong đồng thuê sạp ở chợ để bán buôn kiếm sống. Gia đình tôi thì làm đậu phụ từ đời ông bà, nên khi ông bà già và mất đi thì bố mẹ tôi lại tiếp nghề.
Thi thoảng mẹ vẫn “kiếm thêm” chút tiền dưa, muối bằng nghề chở đò cho khách qua sông, vì bên kia sông là một cái chợ phiên cứ năm hôm họp một lần nên người dân ở hai bên sông vẫn có nhu cầu qua lại trao đổi, mua bán hàng hóa. Người lớn vất vả, trẻ con trong làng thì, ngoài thời gian học hành ra vẫn phải phụ giúp cha mẹ làm các công việc lặt vặt nên đứa nào đứa nấy cũng lem luốc, nheo nhóc.
Tôi thì mới lên mười đã thạo việc tuốt, từ giúp mẹ say đậu tương mỗi sáng để ép đậu, hay băm bèo, nấu cám, cho gà ăn… Chẳng riêng gì nhà tôi mà hầu hết các hộ dân ở làng đều nghèo vì vậy những dịp “đứt bữa” thiếu đói trong những dịp tháng ba, ngày tám là thường tình.
Sống những tháng ngày ấu thơ trong ngôi làng bên sông nghèo khó, lam lũ đã chấp cánh cho nghị lực biết vượt khó trong tôi luôn trỗi dậy. Không chỉ tôi, mà ở cái làng này, nhà nào cũng có con đỗ đại học và dường như những người trẻ của làng luôn tự ý thức là phải vươn lên, phải “thoát ly”, thoát khỏi cảnh đói nghèo bằng con đường học hành.
Chính vì vậy mà dần dần, bộ mặt làng quê ngày một trù phú đổi mới với sự giúp sức của các thế hệ những người trẻ của làng. Đó là dưới những tán tre xanh, các ngôi nhà mái ngói, nhà tầng kiểu cách mọc lên thay thế cho các ngôi nhà lụp xụp tồi tàn. Đời sống kinh tế của các hộ dân cũng ngày một no ấm khi hầu như chẳng có mấy ai phải thiếu đói như xưa.
…Xa quê đã lâu nay trở về nhìn thấy ngôi làng bên sông yêu dấu đổi thay lòng tôi chộn rộn niềm vui khôn tả. Bao giờ cũng vậy, lần nào trở về chốn bình yên quê nhà - nơi có cha có mẹ, có xóm giềng mộc mạc thân thương tôi cũng không quên ra bìa làng để đứng dưới tán tre xanh mướt ngắm nhìn dòng sông loang loáng và tìm chút hoài niệm xa xăm về một thời ấu thơ với biết bao nhiêu là kỷ niệm...