Lo cho lạm phát năm sau
Theo PGS. TS. Đào Văn Hùng (Học viện Chính sách và Phát triển), nghiên cứu về lạm phát trong những năm vừa qua ở Việt Nam cho thấy, kiểm soát lạm phát thường là chặt chẽ vào 6 tháng đầu năm nhưng lại nới lỏng 6 tháng cuối năm, tạo áp lực lạm phát trong năm sau.
Chính sách và phản ứng phụ
Theo PGS. TS. Đào Văn Hùng (Học viện Chính sách và Phát triển), nghiên cứu về lạm phát trong những năm vừa qua ở Việt Nam cho thấy, kiểm soát lạm phát thường là chặt chẽ vào 6 tháng đầu năm nhưng lại nới lỏng 6 tháng cuối năm, tạo áp lực lạm phát trong năm sau. Những lo ngại về lạm phát có thể xảy ra đối với năm 2013 cũng không ngoại lệ.
Những lo ngại tỏ ra có cơ sở. Chỉ cần xem xét đến yếu tố cung tiền, nếu thực hiện đúng theo kế hoạch đã đề ra cho năm 2012 cũng có thể tạo áp lực lạm phát. Bởi lẽ, để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6-6,5% năm 2012, từ nay đến cuối năm, theo tính toán của các nhà quản lý, tổng cung tiền phải bơm ra theo chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng tín dụng (khoảng 50-55 nghìn tỷ đồng/tháng) và kế hoạch cho ngân sách (21 nghìn tỷ đồng/tháng) tổng số khoảng 420 – 480 nghìn tỷ đồng. Nếu cộng cả với 240 nghìn tỷ đồng đã cung ra trong 6 tháng đầu năm (gồm 180 nghìn tỷ đồng mua ngoại tệ và 60 nghìn tỷ tín dụng hỗ trợ nông nghiệp nông thôn), lượng cung tiền ra nền kinh tế năm 2012 khoảng 660 – 720 nghìn tỷ đồng.
Ảnh: BĐT
Quan điểm của một số chuyên gia, chỉ tiêu cung tiền, tăng trưởng tín dụng và chi ngân sách nói trên là “nằm trong kế hoạch” nên không gây lạm phát. Tuy nhiên, PGS. TS. Đào Văn Hùng cho rằng, bản chất của lạm phát là cung tiền vượt quá lượng tiền cần thiết lưu thông trong nền kinh tế. Nó không phụ thuộc vào thời điểm cung ứng mà phụ thuộc vào khối lượng cung tiền và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Do lượng tiền cung ra không phải được phân đều trong 12 tháng, mà chủ yếu tập trung vào 6 tháng cuối năm 2012, nên nền kinh tế rất khó hấp thụ và sẽ gây thêm áp lực rất lớn cho lạm phát năm sau.
Ở một khía cạnh khác, một số nhận định cho rằng, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng phải thực hiện 7 tháng còn lại để đạt kế hoạch là 15-17%/năm, tương đương với 2,1-2,4%/ tháng. Đây là một mức khá cao. “Như vậy, nếu giải ngân đảm bảo được mục tiêu kế hoạch thì nguy cơ cung tiền 6 tháng cuối năm và cùng với tăng chi phí đầu vào của sản xuất, kinh doanh dịch vụ của nền kinh tế… sẽ gây áp lực rất lớn đối với lạm phát trong năm sau là một thực tế hiển nhiên” – TS. Nguyễn Thạc Hoát, Học viện Chính sách và Phát triển nhận định.
Tìm động lực phát triển mới
Việc tăng tín dụng và và giảm lãi suất không có mấy ý nghĩa cho những tháng cuối năm khi tồn kho vẫn cao, sản xuất đình trệ, DN không hấp thụ nổi vốn. Với ám ảnh này, chuyên gia Cấn Văn Lực cho rằng không nên hạ thêm lãi suất huy động, bởi việc hạ thêm lãi suất sẽ gây áp lực lạm phát cho năm sau. Để tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế cần có những chính sách phù hợp hơn.
Để đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, các chuyên gia cho rằng Chính phủ cần thực hiện một cách đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. Trước hết, cần ưu tiên hỗ trợ khu vực sản xuất kinh doanh, tập trung vào khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Bởi lẽ, muốn tạo ra sự đột phá và phát triển bền vững Chính phủ phải xác định rõ “động lực phát triển mới” của nền kinh tế để có chính sách, giải pháp phù hợp.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn dựa vào 4 nguồn lực chủ yếu, gồm chi tiêu công; xuất khẩu ròng; đầu tư kinh doanh của khu vực các DNNN và khu vực tư nhân; tiêu dùng của cá nhân trong nền kinh tế. Thế nhưng, thực tế những năm qua, nguồn vốn chi tiêu công không thể tạo ra được sự tăng trưởng đột phá cho nền kinh tế. Xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng khó khăn hơn. Đầu tư từ khu vực DNNN cũng không có khả năng tạo ra động lực phát triển cho nền kinh tế trước mắt và lâu dài. Chỉ còn khu vực tư nhân và tiêu dùng của cá nhân trong nền kinh tế.
“Có thể xác định rõ quan điểm về động lực phát triển mới của kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2012 và trong trung dài hạn sẽ là tiêu dùng nội địa và đầu tư khu vực DN ngoài nhà nước. Chính phủ cần có chính sách và giải pháp tập trung chỉ đạo điều hành thực hiện nhất quán quan điểm này.” - PGS. TS Đào Văn Hùng nhấn mạnh. |
TS. Vũ Thị Minh Luận (Học viện Chính sách và Phát triển) cho rằng, thị trường tiêu thụ nội địa của hơn 86 triệu dân có tiềm năng rất lớn, thu nhập của cư dân ngày càng cao, cơ cấu nhập khẩu có nhiều những mặt hàng thiết yếu mà Việt Nam có thể sản xuất và thay thế hàng nhập khẩu. Vì vậy, Việt Nam hoàn toàn có đủ tiềm năng và lợi thế để biến tiêu thụ nội địa thành động lực phát triển mới.
Bên cạnh đó, theo PGS. TS. Đào Văn Hùng, Chính phủ cần xem xét đến các giải pháp tăng tổng cầu. Trong đó, trước mắt cần tăng tốc độ giải ngân đầu tư công và chi tiêu ngân sách, thậm chí cần tính đến cho ứng trước một số công trình đầu tư công của năm 2013 nếu có thể hoàn thành và sớm đưa vào sử dụng.
Song song với đó, cần các giải pháp kích thích tiêu dùng. Bởi lẽ, sản xuất và tiêu dùng là hai mặt của quá trình luân chuyển hàng hóa, dịch vụ. Nếu tiêu dùng giảm sút sẽ khó có thể giải quyết được nút thắt cổ chai hàng tồn kho và thanh khoản của nền kinh tế.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống dưới 20%, giảm thuế VAT xuống dưới 7%... Tạo điều kiện cho DN ngoài nhà nước tiếp cận với vốn trung và dài hạn như vốn ODA hay từ các định chế tài chính khác như ADB, WB, IMF… Các chính sách cần ưu đãi đầu tư cho DN ngoài quốc doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN này...
Dương Công Chiến