Lỗ hổng chờ lấp đầy
Lỡ nhịp đầu tư
Khoảng đầu 2005, một nguồn vốn tài trợ từ Tổ chức Hợp tác phát triển nông nghiệp quốc tế (ACDI/VOCA) của Hoa Kỳ dành cho khoảng 13.000 ha ca cao đã được người dân tại tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và các tỉnh Tây Nguyên trồng trong đợt đầu.
Mô hình tài chính vi mô phù hợp sẽ hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ gia đình phát triển |
Tuy nhiên, 3 năm sau đó, khoảng 1/3 số diện tích ca cao này bị chặt bỏ để thay thế bằng loại cây trồng khác. Nguyên nhân do hầu hết các dự án được đầu tư trồng theo mô hình thí điểm, nguồn vốn của tổ chức quốc tế chỉ được xây dựng theo chương trình bước đầu phát triển diện tích ca cao ở Việt Nam, mỗi mô hình chỉ kéo dài trong vòng 3-4 năm. Khi dự án kết thúc bỏ lại cây trồng cho nông dân “tự bơi” cả về vốn, kỹ thuật chăm sóc, thông tin giá cả thị trường tiêu thụ.
Ngay lập tức các DN trong nước nhạy bén với khả năng sinh lợi của cây ca cao đã nhanh chóng nắm bắt lấy các vườn ca cao bắt đầu cho thu hoạch và đưa ra các kế hoạch hỗ trợ vốn cho người dân tiếp tục canh tác loại cây trồng mới này.
Tại Đồng Nai, Đắk Lắk các DN đã đưa ra phương thức hợp tác với người dân ở các mô hình thí điểm và phát triển thêm các diện tích ca cao mới trên cơ sở DN cung ứng vốn mua giống, vật tư và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Từ liên kết này, các DN ca cao trong nước đã đầu tư hàng trăm ha diện tích cây ca cao liên tiếp trong các năm 2009-2010, hình thành nhiều vùng sản xuất ca cao trọng điểm ở phía Nam. Một số DN lớn nhờ xuất phát điểm ban đầu là các dự án thí điểm do các tổ chức quốc tế để lại đã xây dựng thành công các mô hình chuỗi liên kết giá trị khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ các sản phẩm từ cây ca cao nhờ đòn bẩy tài chính mà họ có được.
Trong đó, Công ty Ca cao Trọng Đức (Định Quán – Đồng Nai) đã xây dựng được vùng nguyên liệu rộng 326 ha. Để có vốn thu mua ca cao trên toàn bộ vùng nguyên liệu, đồng thời đầu tư các dây chuyền sản xuất những sản phẩm giá trị gia tăng từ hạt ca cao, công ty này đã vay mượn 10 tỷ đồng. Đến nay, các sản phẩm chế biến sâu như bột ca cao, rượu ca cao, chocolate... đã có thị trường tiêu thụ.
Cần thêm bàn tay chắp nối cho dự án
Từ chuyện cây ca cao được một tổ chức nước ngoài khảo sát thí điểm trồng trên mảnh đất Việt Nam cho nông dân, nhưng đã bị DN nhanh tay “hớt ngọn” khi nhà nông cạn vốn. Thiết nghĩ rằng nếu mô hình tài chính vi mô ở nước ta phát triển thì nông dân sẽ không bị bỏ giữa chừng và sẽ chủ động được nguồn cung ứng nguyên liệu cho chế biến chứ không phải bán non như vậy.
Thực tế, ở nhiều địa phương có các dự án được một số tổ chức phi chính phủ quốc tế tài trợ vốn đầu tư cho nước sạch, bi-o-ga, vệ sinh môi trường… Thế nhưng chỉ cần các tổ chức quốc tế rút đi sau khi hoàn thành một khâu trong các dự án tài trợ thì những nhân sự còn lại phải lặng lẽ tìm kiếm các nguồn vốn khác với lãi suất cao, gây mất an toàn tài chính.
Đã có nhiều nghiên cứu, nhưng dường như cơ chế về mô hình tổ chức tài chính vi mô và cách thức hoạt động thì vẫn chưa thực sự cởi mở cho những thực thể tham gia thị trường. Cho đến nay cả nước mới có 3 tổ chức tài chính vi mô được NHNN cấp phép nhưng hoạt động vẫn rất co cụm ở một số địa bàn miền Bắc và miền Trung.
Quỹ CEP (của Liên đoàn Lao động TP. Hồ Chí Minh) đang trong quá trình hoàn thiện hồ sơ để cơ quan quản lý NH thành phố xem xét chuyển đổi thành tổ chức tài chính vi mô đầu tiên ở địa phương này.
Khoảng trống về vốn nhỏ lẻ này hiện nay đang được một số tổ chức đoàn thể xã hội như liên đoàn lao động, hội phụ nữ, có hoạt động tài chính vi mô thông qua nguồn vốn tài trợ từ các định chế tài chính quốc tế để hỗ trợ cho người nghèo tạo việc làm.
Hoặc có quỹ hoạt động theo các quy định của chính quyền địa phương, bằng tiền ngân sách, mỗi khoản vay không quá 30 triệu đồng được chia thành các sản phẩm từ thấp đến cao tính theo giá trị khoản vay, phù hợp với khả năng sản xuất, kinh doanh và năng lực tài chính của từng hộ vay vốn.
Bên cho vay thường tính theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ một sản phẩm hàng hóa. Không phủ nhận những khoản vốn nhỏ lẻ ngắn hạn này những năm qua của các quỹ hỗ trợ đã góp phần tạo lập kinh tế hộ gia đình và giúp hàng ngàn hộ dân thoát nghèo.
Cũng cần lưu ý, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (tương đồng với mô hình tài chính vi mô) hiện nay hoạt động nhưng theo hình thức thành viên góp vốn và cho vay lại theo tỷ lệ và giới hạn địa bàn cho vay (chỉ thị trấn phường xã liền kề) không vì mục tiêu lợi nhuận.
Trong khi đó, tổ chức tài chính vi mô được quyền huy động vốn từ các tổ chức phi chính phủ, không giới hạn địa bàn và không bị cấm ở mục tiêu lợi nhuận. Do đó tổ chức tài chính vi mô phải thực hiện đầy đủ các bước quản lý, kiểm soát của nhà điều hành chính sách tiền tệ để không bị tác động lây lan sang hệ thống NH.
Đồng thời cũng có cơ chế chính sách quản lý chặt chẽ lãi suất cho vay của các tổ chức tài chính vi mô theo lãi suất của nhà điều hành chính sách tiền tệ.
Mô hình tài chính vi mô đã rất phát triển ở những quốc gia như Ấn Độ, Bangladesh… Thực tế thị trường Việt Nam đang rộng mở và để những đồng vốn của các định chế tài chính quốc tế nhằm khởi tạo cho một mô hình sản xuất kinh doanh.
Khi họ rút đi rồi, rất cần vai trò của các tổ chức tài chính vi mô đứng ra đỡ đầu các dự án đầu tư đó tiếp tục phát triển. Theo đó, vừa kiểm soát được rủi ro dòng vốn vừa đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng trên thị trường cho những người nghèo không có điều kiện tiếp cận vốn NH.