Lo không tròn vai điều hoà vốn
Nếu như trước đây, nhu cầu vay vốn của QTDND thường rất lớn, nhất là vào các dịp cuối năm, tạo sức ép lên QTDND Trung ương (nay là NH Hợp tác-NHHT) thì những năm gần đây, đặc biệt là trong năm 2013 và 2014, việc điều hòa vốn trong hệ thống (từ QTDND lên NHHT) đã có những chuyển biến lớn. Nguồn vốn điều hòa từ QTDND về NHHT liên tục tăng trưởng và có xu hướng ngày càng tăng. Có thời điểm vốn điều hòa từ QTDND gửi vào NHHT gần 10.000 tỷ đồng, trong khi đó tăng trưởng tín dụng của NHHT rất khó khăn, nhu cầu vay vốn của QTDND lại giảm. Báo cáo kết quả hoạt động của NHHT năm 2014 cho thấy, tiền gửi của các QTDND tính đến 31/12/2014 là 8.967,89 tỷ đồng tăng 67,47% so với cùng kỳ.
Đây có thể là một xu hướng phát triển lâu dài của hệ thống, bởi hiện nay quy mô các QTDND là tương đối lớn, uy tín ngày càng được nâng cao, ổn định địa bàn nên việc huy động vốn tương đối tốt; hoạt động của QTDND cũng từng bước đi vào khuôn khổ, liên kết chặt chẽ hơn nên phần lớn các QTDND đã cân đối, chủ động được nguồn vốn để hoạt động, nhu cầu vay vốn NHHT ngày càng giảm.
NHHT sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện chức năng điều hòa vốn |
Về bản chất tiền gửi điều hòa từ các QTDND lên NHHT là một hình thức “huy động vốn có tính đặc thù” và trong mọi tình huống, NHHT phải thực hiện nhiệm vụ này mà không có quyền từ chối. Tuy nhiên do lượng tiền gửi điều hòa lớn, lãi suất gửi các TCTD khác thấp hơn lãi suất nhận tiền gửi của QTDND (trong khi vốn dư thừa không mua được trái phiếu) nên trong quý II và quý III/2014, NHHT bị giảm thu nhập, lỗ ước tính khoảng 8-10 tỷ đồng/tháng.
Áp lực của nguồn vốn này lên chi phí và hoạt động của NHHT càng thêm lớn theo khoản 6 Điều 17 tại Thông tư số 36/2014/TT-NHNN của NH Nhà nước (NHNN), ban hành ngày 20/11/2014 về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD.
Theo Thông tư này, NHHT chỉ được mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ với tỷ lệ so với vốn ngắn hạn là 40%. Nhưng tại điểm a khoản 4 Điều 17 của Thông tư, thì nguồn vốn ngắn hạn được xác định “không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn của TCTD”. Với quy định như vậy, toàn bộ các khoản tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn còn lại dưới 12 tháng của các QTDND tại NHHT sẽ không được tính vào nguồn vốn ngắn hạn và do đó không được sử dụng nguồn vốn này để đầu tư, mua trái phiếu Chính phủ.
Dòng vốn này cũng khó chảy sang các kênh đầu tư ngoài QTDND khi khoản 5 Điều 17 Thông tư 36 quy định: NHHT được sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn theo tỷ lệ tối đa là 60%, trong đó lại loại trừ nguồn tiền gửi của các QTDND lên NHHT (tại điểm a khoản 4 Điều 17).
Như vậy, nếu thực hiện như nội dung quy định tại khoản 4, khoản 5 và khoản 6 Điều 17 Thông tư 36, NHHT sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện chức năng điều hòa vốn của mình, đặc biệt là với giới hạn về tỷ lệ đầu tư trái phiếu, tín phiếu so với vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn.
Thực tế cho thấy, trong năm 2013 và 2014, mặc dù nguồn vốn tại NHHT còn đang dư thừa nhưng với vai trò đầu mối hệ thống, NHHT vẫn phải nhận tiền gửi của QTDND với lãi suất cao và chịu lỗ. Trong khi đó, hoạt động cho vay của NHHT đối với các thành phần kinh tế khác phải thực hiện theo mức giới hạn của NHNN, còn cho vay đối với các QTDND thì suy giảm mạnh vì các QTDND cũng dư thừa vốn.
Trong điều kiện như vậy, việc đầu tư, mua trái phiếu Chính phủ là an toàn, hiệu quả nhất và cũng dễ chuyển đổi nhanh khi QTDND có nhu cầu rút tiền. Nếu không được sử dụng nguồn tiền gửi của QTDND để đầu tư mua trái phiếu Chính phủ, NHHT sẽ thường xuyên phải chịu gánh một khoản lỗ rất lớn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và gây nhiều khó khăn cho hoạt động của NHHT và QTDND.
Do đó, đối với nội dung quy định tại Khoản 4 Điều 17, cần xem xét, bổ sung quy định áp dụng riêng đối với NHHT, theo đó NHHT được phép tính nguồn vốn ngắn hạn bao gồm cả các khoản tiền gửi của các QTDND tại NHHT.
Trường hợp không điều chỉnh, quy định này rất có thể sẽ tạo nên biến động lớn trong điều hòa nguồn vốn của hệ thống, vì nguồn tiền gửi của các QTDND có thể phải điều chỉnh từ tiền gửi có kỳ hạn về không kỳ hạn để tránh lỗ cho NHHT. Tuy nhiên trong trường hợp đó sẽ là bất lợi cho các QTDND và không khuyến khích, thu hút được nguồn vốn điều hòa của hệ thống.
Ngoài ra nhiều khái niệm trong Thông tư 36 cần được làm rõ như khái niệm “khâu thẩm định” và người thẩm định”, “khâu cấp tín dụng” và “người quyết định cấp tín dụng” tại khoản 1, điều 4. Trong đó đặc biệt cần làm rõ khái niệm “khâu” xem ở đây nó được hiểu là người hay bộ phận thực hiện một công đoạn trong quy trình cấp tín dụng.
Điểm d, khoản 4 việc xét cấp tín dụng và xét duyệt, quyết định cơ cấu thời hạn trả nợ (bao gồm gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn nợ) phải được thực hiện trên nguyên tắc người quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ không là người quyết định cấp khoản tín dụng đó… Tuy nhiên, cần làm rõ thêm với quy định này thì người thẩm định, đề xuất cấp tín dụng có được thực hiện việc thẩm định, đề xuất cơ cấu lại thời hạn trả nợ hay không.
Đây cũng là lý do NHHT đề nghị NHNN nghiên cứu xem xét giải quyết những nội dung vướng mắc tại Thông tư 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của NHNN Việt Nam ở Khoản 4 và Khoản 6 Điều 17 Thông tư “Quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài” để NHHT thực hiện tốt hơn vai trò là NH đầu mối của QTDND.