Luật Điện ảnh đã xa rời thực tế
Không thể phủ nhận, Luật Điện ảnh năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), đã tạo nên hành lang pháp lý quan trọng cho các chủ thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, tạo cơ sở để phát triển điện ảnh Việt Nam. Qua 12 năm thi hành Luật Điện ảnh, điện ảnh Việt Nam đã có nhiều bước tiến. Doanh thu điện ảnh trong những năm gần đây tăng trung bình từ 25 - 30% năm. Số lượng phim Việt Nam sản xuất ngày càng tăng, đặc biệt đa số được sản xuất bằng nguồn xã hội hóa.
Một cảnh trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, bộ phim hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân được khán giả yêu thích |
Tuy nhiên, trong thời đại khoa học kỹ thuật bùng nổ, Luật Điện ảnh bộc lộ một số hạn chế, bất cập, lạc hậu không phù hợp với thực tế. Theo TS-NSƯT Nguyễn Thị Thu Hà - Quyền Cục trưởng Cục Điện ảnh, vấn đề vi phạm bản quyền, cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh… với nhiều diễn biến tiêu cực, phức tạp mà luật chưa quy định, chưa có chế tài xử lý. Thêm nữa, sự thay đổi phương thức thương mại cùng nhiều cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, các chính sách quản lý hiện nay đang hạn chế việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực điện ảnh.
Mặt khác, vấn đề khai thác, phổ biến phim trên môi trường internet, xem phim trên các thiết bị di động cá nhân là những nội dung mới chưa được đề cập đầy đủ trong Luật Điện ảnh. Chính thế, đối với các loại phim đang phổ biến tràn lan trên mạng internet, thường gọi là “web drama”, luật không hề điều chỉnh, cơ quan quản lý cũng bỏ ngỏ quản lý. Trong khi đó, “web drama” có số lượng lượt xem lên đến hàng chục triệu, gấp nhiều lần phim chiếu rạp. Đi kèm với đó là vấn đề vi phạm bản quyền, cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh… với nhiều diễn biến tiêu cực, phức tạp mà luật chưa quy định, chưa có chế tài xử lý.
Đại diện Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp cho rằng, hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, một số hành vi vi phạm về phát hành phim, nhân bản và tàng trữ phim… không còn phù hợp với tình hình thực tiễn, mức xử phạt thấp, chưa bảo đảm được tính răn đe. Cùng với đó, mặc dù chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh đã được đề cập tại Luật Điện ảnh hiện hành, song thực tế các nhà quản lý vẫn chưa sẵn sàng “san sẻ” quyền tự quyết cho các cơ sở điện ảnh (hãng sản xuất; trung tâm dịch vụ chiếu phim…). Một số quy định của Luật Điện ảnh còn chưa bảo đảm tính khả thi, còn quá tập trung vào công tác quản lý Nhà nước mà chưa có các quy định cụ thể về biện pháp mang tính phát triển trong hoạt động đa dạng của lĩnh vực điện ảnh.
Theo NSND Đặng Xuân Hải - Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam, thực trạng tràn lan của phim ngoại nhập, tạo sự xâm nhập khó kiểm soát của văn hóa ngoại lai, dẫn đến nguy cơ làm phai mờ những giá trị văn hóa truyền thống. “Nhiễm độc thực phẩm thì chỉ mất thời gian khắc phục 5 - 7 ngày, nhưng nhiễm độc văn hóa thì khó khắc phục vô cùng. Trọng trách của Luật Điện ảnh sửa đổi phải “gánh vác” vấn đề này…” - ông Đặng Xuân Hải chia sẻ.
Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam còn cho rằng, dù hoạt động trong cơ chế thị trường nhưng điện ảnh Việt Nam phải được cảnh tỉnh, bởi điện ảnh không phải là kẻ chỉ “chạy theo” thị trường. Điện ảnh có chức năng riêng về giáo dục, thẩm mỹ, giải trí... Minh chứng cho thực trạng mất “cân đối” giữa phim nội và phim ngoại là lượng phim nhập khẩu của Việt Nam khoảng 250 phim/năm trở lên, nhiều nhất là ở các công ty liên doanh nước ngoài. Những công ty này cũng chiếm lĩnh lượng rạp khá lớn, họ tích cực xây dựng các rạp chiếu, đầu ra cho phim ngoại. Khi “đầu vào” với tỷ lệ nhập phim ngoại đã không khống chế, “đầu ra” lại có một hệ thống rạp phong phú, sự tràn lan phim ngoại trên thị trường cũng là điều dễ hiểu.
Ông Đặng Xuân Hải nhấn mạnh: “Sứ mệnh của Luật Điện ảnh (sửa đổi) là phải điều chỉnh vấn đề này. Cụ thể, cần đưa thêm vào Luật Điện ảnh (sửa đổi) một số quy định có tính rào cản kỹ thuật. Ví như hạn chế đầu tư phát triển các cụm rạp chiếu phim ở thành phố nhưng ưu tiên xây dựng rạp chiếu ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa; tăng thuế nhập khẩu phim ngoại; có quy định ràng buộc các công ty nước ngoài phải đầu tư sản xuất phim tại Việt Nam (hoặc phát hành phim Việt). Cùng với đó, các phòng chiếu cũng phải quy định chiếu phim Việt Nam theo quy định trong chiến lược phát triển điện ảnh”.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc đổi mới toàn diện nền điện ảnh là một đòi hỏi cấp bách xuất phát từ đặc điểm điện ảnh là một ngành nghệ thuật có tính quốc tế cao. Giống như những ngành văn hóa khác, điện ảnh không chỉ có phạm vi hoạt động trong một quốc gia mà còn mang tính toàn cầu. Do đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Ban soạn thảo, sửa chữa luật cần tiếp tục lắng nghe, tiếp thu ý kiến của các nhà làm phim, nhà sản xuất, các chuyên gia hoạt động trong ngành điện ảnh cũng như từ các địa phương, để có những đề xuất sửa đổi, bổ sung luật đầy đủ và thích hợp, tiếp tục tạo đà cho điện ảnh Việt Nam phát triển và hội nhập.
Bà Ngô Thị Bích Hạnh, Tổng giám đốc Công ty TNHH Bình Hạnh Đan (BHD) cho biết: Trước đây ở thời kỳ điện ảnh Hàn Quốc chưa phát triển, giống như Việt Nam hiện nay, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng tỷ lệ giờ chiếu tối thiểu cho phim Hàn Quốc là 40%. Chỉ sau vài năm, với động lực đó, nền công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đã phát triển đến mức không cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Và đó là thời điểm Hàn Quốc bỏ quy định về tỷ lệ giờ chiếu tối thiếu cho phim của nước này. Nền điện ảnh Việt Nam rất cần động lực như thế để phát triển. |