Lúng túng với hàng rào kỹ thuật
Ảnh minh họa |
Tăng chi phí tuân thủ
CTCP Dây cáp điện Việt Nam (CADIVI) là trường hợp đang phải đối mặt với các TBT. Ông Phạm Xuân Trung, Phó phòng Thương mại công ty cho hay, CADIVI đang vướng phải TBT từ hai thị trường Mỹ và Nhật Bản - các quốc gia tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Theo ông Trung, Nhật Bản là thị trường tiềm năng nhưng khó tính. Luôn đi đầu về chất lượng sản phẩm, hàng hóa xuất vào thị trường Nhật cũng vấp phải nhiều hàng rào về kỹ thuật để bảo hộ sản xuất trong nước. Đặc biệt các tiêu chuẩn chất lượng của Nhật Bản lại là những tiêu chuẩn rất đặc thù.
Chẳng hạn, Chính phủ Nhật Bản và các cơ quan chứng nhận của quốc gia này chịu trách nhiệm cấp 1 trong 2 chứng chỉ chất lượng JIS và PSE cho sản phẩm dây cáp điện, hoặc thông qua một số tổ chức chứng nhận quốc tế được họ chỉ định để cấp các chứng chỉ mà không làm trực tiếp với DN, nên việc tìm hiểu về các chính sách, cách thức, quy trình cấp… gặp nhiều khó khăn. “Chúng tôi phải thông qua tổ chức chuyên chứng nhận là TUV SUD PS để tư vấn, liên hệ và thực hiện việc chứng nhận”, ông Trung cho biết.
Tương tự là tại Mỹ. “Xuất khẩu vào thị trường Mỹ đòi hỏi DN phải có chứng nhận UL (chứng nhận sản phẩm đạt các chỉ tiêu về an toàn, bao gồm an toàn về điện, an toàn với sức khỏe con người, an toàn với môi trường...). Tuy nhiên, khó khăn ở chỗ, chi phí xin chứng nhận và duy trì chứng nhận cao, khiến cho giá thành sản phẩm của công ty tăng, DN khó cạnh tranh với hàng trong nước sở tại…”, ông Trung cho biết.
Theo phạm vi hẹp, đối tượng điều chỉnh của TBT là các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp. Đây là những công cụ cần thiết nhằm phục vụ an toàn và sức khỏe con người, bảo vệ môi trường, vật nuôi cây trồng, lợi ích người tiêu dùng và an ninh quốc phòng.
Theo Ths. Phạm Bình An, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ hội nhập WTO TP. Hồ Chí Minh, thông thường mỗi quốc gia đều xây dựng cho mình một hàng rào kỹ thuật hợp pháp, nhằm đảm bảo cung ứng các hàng hóa đạt yêu cầu chất lượng. “Nhưng chúng có thể là gánh nặng chi phí và là vấn đề phức tạp đối với DN”, ông An nhấn mạnh.
Cần nâng cao vai trò hiệp hội
Khó khăn tiếp theo mà CADIVI gặp phải là về ngôn ngữ khi nghiên cứu, tìm hiểu về tiêu chuẩn sản xuất, thử nghiệm 2 loại chứng nhận của Nhật Bản. Bởi có những tài liệu do các cơ quan chứng nhận của Nhật Bản cung cấp hoàn toàn bằng tiếng Nhật, không hỗ trợ tiếng Anh nên khiến nhiều DN Việt Nam có nhiều lúng túng, khó khăn.
Ngoài ra, DN còn gặp “rào cản” về mặt thủ tục, giấy tờ. Cũng theo ông Trung, đối với thị trường Nhật Bản, do thủ tục xin chứng nhận không nhất quán và rõ ràng ngay từ đầu nên lại tiếp tục gây khó khăn cho DN. Có những tài liệu bên Nhật không cung cấp nhưng đến khi kiểm tra thử nghiệm lại lấy đó là căn cứ đánh giá.
Để giải quyết khó khăn về các TBT kể trên, tự bản thân DN rất khó để đáp ứng được yêu cầu, bởi DN còn phải tập trung cho việc sản xuất… Do đó, các DN cần có sự đồng hành từ phía các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, nhìn từ thực tế địa phương, ông Trần Hữu Thanh Nhã, Phó chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng tỉnh Bình Thuận cho biết: “Nhân lực làm công tác TBT của các sở, ngành liên quan là cán bộ kiêm nhiệm, chưa có kinh nghiệm hoạt động, do đó còn lúng túng trong triển khai công việc. Hầu hết các thông tin về hàng rào kỹ thuật trong thương mại bằng tiếng nước ngoài, trong khi khả năng ngoại ngữ của chuyên viên làm công tác này còn hạn chế nên việc cập nhật, tổng hợp và phổ biến thông tin cho DN gặp khó khăn”.
Bà Lê Bích Ngọc, Phó giám đốc phụ trách Văn phòng TBT Việt Nam khẳng định: “Phần lớn DN sản xuất sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô hoặc gia công thuê cho các công ty nước ngoài nên mức độ quan tâm đến TBT là không cao”. Trong khi đó, sự phối hợp của các DN tỉnh nhà với cơ quan nhà nước trong tìm hiểu, phản ứng, đối phó với các rào cản kỹ thuật còn yếu, có quá ít phản ứng của các DN trước những thông báo về TBT mà các nước dự kiến áp dụng...
Trong bối cảnh hội nhập đã “gõ cửa” từng DN, các chuyên gia nghiên cứu về hội nhập cho rằng, đã đến lúc cần tăng cường vai trò của các hiệp hội, ngành hàng. Vì các hội nắm rõ tình hình sản xuất, thị trường, thực trạng các DN. Ngoài ra, kinh nghiệm các nước cho thấy, các hiệp hội, ngành hàng cũng là đơn vị đi đầu trong việc tập hợp sức mạnh của các DN, nhằm giải quyết các vụ việc phòng vệ thương mại phát sinh…