Nên cho vay theo chuỗi với ngành dừa
Dễ tiếp cận vốn nhưng ít vay
Theo thống kê của NHNN Chi nhánh tỉnh Bến Tre (tỉnh có diện tích dừa lớn nhất cả nước), tính đến thời điểm tháng 2/2015 dư nợ cho vay ngành dừa của các TCTD trên địa bàn tỉnh Bến Tre đạt khoảng 1.128 tỷ đồng. Trong số này, dư nợ cho vay đối với các hộ gia đình, trang trại phục vụ trồng và chăm sóc dừa đạt khoảng 207 tỷ đồng (chiếm 12,4%). Số còn lại là cho vay đối với các DN chế biến, sản xuất XK các sản phẩm từ cây dừa.
Nông hộ trồng dừa cần được cấp vốn tín dụng để đủ tiềm lực tài chính hợp tác lâu dài với DN chế biến |
Ông Trần Văn Đức, Giám đốc NHNN Chi nhánh tỉnh Bến Tre cho rằng, hiện nay chuỗi giá trị sản xuất chế biến ngành dừa được thể hiện chủ yếu bằng liên kết giữa 4 đối tượng là: hộ nông dân trồng dừa – thương lái mua gom dừa trái – cơ sở sơ chế dừa trái, sản phẩm từ dừa – và các DN sản xuất chế biến, XK sản phẩm từ dừa.
Trong chuỗi này, vốn tín dụng từ các NHTM trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã tham gia vào tất cả các khâu. Hầu hết các hộ trồng dừa khi có nhu cầu vay vốn để trồng mới, chăm sóc, thâm canh vườn dừa đều dễ dàng tiếp cận vốn vay NH. Tuy nhiên, do diện tích canh tác của các hộ nông dân rất nhỏ (75,4% số hộ dân trồng dừa tại Bến Tre canh tác dưới 0,5ha – PV) nên đa phần nông hộ chủ động dùng vốn tự có để trồng dừa chứ ít vay vốn NH.
Đồng quan điểm với ông Đức, đại diện CTCP XNK Bến Tre (Betrimex) cho rằng, hiện nay vốn tín dụng chưa được bố trí đều trong các mắt xích của chuỗi giá trị cây dừa. Cụ thể, phần lớn nguồn vốn của các NHTM chỉ tập trung cho vay vào các DN sản xuất chế biến XK (vì đây là các đối tượng có doanh thu lớn, có tài sản thế chấp). Những mắt xích còn lại như các hộ gia đình, cơ sở thu gom, sơ chế nhỏ lẻ thì chưa được các TCTD quan tâm nhiều.
Theo vị đại diện này, nguyên nhân các NHTM chưa cho vay nhiều vào các đối tượng nông hộ và cơ sở chế biến là vì nhu cầu vốn đối với trồng dừa không lớn. Hiện mức đầu tư với 1ha dừa thông thường chỉ khoảng 100 triệu đồng cho 4 năm. Các hộ nông dân nếu canh tác dưới 0,5 ha thì năm đầu tiên chỉ cần vốn khoảng 20 triệu đồng và 10 triệu đồng cho mỗi năm tiếp theo. Nếu tính toán trên góc độ sản xuất nhỏ lẻ thì người dân trồng dừa và các cơ sở thu gom, sơ chế không cần vay vốn NH vẫn có thể đầu tư tốt nhờ nguồn vốn tự có.
Tuy nhiên, nếu xét trên khả năng hình thành chuỗi giá trị cả ngành dừa thì khi các hộ nông dân và các cơ sở thu mua, sơ chế dừa không vay vốn NH sẽ dẫn tới việc ách tắc dòng vốn ở các DN chế biến XK. Cụ thể, khi các DN mua nguyên liệu từ nông dân và thương lái sẽ phải bỏ ra chi phí lớn để thanh toán. Nông dân và các cơ sở mua gom, sơ chế không có sẵn nguồn lực để bán chịu gối đầu cho DN nên không tạo được ràng buộc với DN, dẫn tới phải chịu sự bấp bênh về giá cả. Ngược lại, các DN phải chịu áp lực vốn khá lớn vì vòng quay của đồng tiền trong quy trình sản xuất kéo dài, tăng chi phí lãi vay và giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Cho vay theo Quyết định 1050
Theo ông Phạm Xuân Hòe, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược NH (NHNN), từ những bất cập trong việc cung cấp tín dụng đối với chuỗi giá trị ngành dừa như trình bày ở trên, thì các địa phương hoàn toàn có thể đề xuất áp dụng phương thức cho vay theo chuỗi giá trị sản phẩm theo các quy định tại Quyết định 1050/QĐ-NHNN của NHNN.
Cụ thể, theo ông Hòe, chuỗi giá trị ngành dừa sẽ được xác định trên cơ sở liên kết giữa các chủ thể bao gồm: nhà cung ứng vật tư, nhà vườn, người thu gom, thương lái, hệ thống phân phối, nhà máy sản xuất chế biến. Dòng tiền từ các NH sẽ được cung ứng trực tiếp đến nhà vườn thông qua các đại lý vật tư, sau đó đến các cơ sở thu gom và chuyển về DN sau đó quay lại NH.
Khi tham gia vào chuỗi này, 100% các khách hàng vay vốn sẽ được đăng ký mở tài khoản tại các TCTD. Việc giải ngân tiền vay, thu hồi nợ được thực hiện hầu hết là qua chuyển khoản. Các DN tham gia vào chuỗi giá trị ngành dừa cũng sẽ được địa phương chọn lựa. Phương án kinh doanh của DN sẽ được các cơ quan chức năng của địa phương thẩm định, đánh giá, sau đó các TCTD sẽ xem xét cho vay với hạn mức phù hợp.
Ông Hòe cho rằng, hiện nay trên địa bàn một số tỉnh trồng dừa trọng điểm như Bến Tre, Trà Vinh, Bình Định đã có nhiều DN hình thành chuỗi liên kết hàng hóa tương đối đầy đủ từ khâu sản xuất đến khâu phân phối. Một số DN ngoài việc tập trung vào khâu chính là chế biến, thì đã tham gia sâu vào các khâu đoạn sơ chế và phân phối. Vì thế các địa phương nên rà soát hoạt động kinh doanh của các DN nhóm này để áp dụng hình thức cho vay theo chuỗi theo quyết định 1050 nhằm giúp các DN tiết giảm chi phí sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh.