Ngân hàng gánh vốn trung dài hạn là quá nặng
PGS-TS. Trần Hoàng Ngân |
Ông nhìn nhận thế nào về việc gần đây một số NHTM tăng lãi suất huy động (LSHĐ) với một số kỳ hạn dài?
Vấn đề LSHĐ của NH cần phải được nhìn nhận ở nhiều góc độ, trong đó có quy luật cung cầu. Đó là cái giá người vay phải trả cho người cho vay, phụ thuộc vào nhu cầu của người vay. Nhưng nếu nhìn ở góc độ nhu cầu vay vốn hiện nay, với các DN vừa trải qua giai đoạn khó khăn, nay đã tốt lên nhưng chưa hoàn toàn phục hồi nên các NHTM cũng không quá căng thẳng về vốn, thanh khoản vẫn tốt. Do vậy, việc các NHTM tăng LSHĐ có thể là mục đích cơ cấu lại kỳ hạn vốn huy động trung - dài hạn. Theo tôi, việc tăng này chỉ là tạm thời.
Theo ông, việc tăng LSHĐ như vậy có gây khó khăn cho nhiệm vụ giảm thêm được lãi suất cho vay (LSCV) trung và dài hạn?
Tôi nghĩ rằng, việc giảm LSCV là điều NHNN rất mong muốn để hỗ trợ người vay và đặc biệt là các DN. Để mong muốn này thành hiện thực, NHNN có thể sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Ví dụ, NHNN có thể xem xét diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 6 để quyết định giảm lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Và khi đưa ra các quyết định trong điều hành, NHNN phải đặt trong tổng thể của diễn biến kinh tế vĩ mô và các chính sách khác mới có thể đủ cơ sở đưa ra quyết định.
Tôi cho rằng, NHNN đang đặc biệt lưu ý, xem xét chỉ số CPI tháng 6 và nhập siêu 6 tháng. Điều này, vừa phải nhìn trên lĩnh vực tỷ giá, vừa cần quan tâm đến lạm phát để quyết định lãi suất theo mục tiêu mong muốn của NHNN.
Điểm nữa là ở Việt Nam, NH Trung ương (NHTW) chưa được độc lập với Chính phủ mà là thành viên của Chính phủ nên mỗi một chính sách NHNN muốn đưa ra phải nhìn nhận những tác động cùng với nhiều chính sách của các bộ, ngành khác.
Để đảm bảo nguồn vốn trung - dài hạn thì phải giải quyết bằng thị trường vốn |
Vậy cần có giải pháp gì đối với vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế?
Như tôi đã phân tích thì ngành NH rất muốn giảm lãi suất cho vay trung - dài hạn, nhưng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đặc biệt, với các NHTM thì phải cân đối cung cầu thị trường. Chính vì vậy, tôi cho rằng Chính phủ và NHNN cần đưa ra một gói hỗ trợ cho vay trung - dài hạn cho các DN để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, hiện đại hóa công nghệ, với lãi suất thấp khoảng 5-6%/năm và ổn định trong 5 - 10 năm. Riêng NHTM thì kinh doanh theo thị trường, nên việc hình thành LSCV trên cơ sở LSHĐ cộng chi phí hoạt động.
Nhiều ý kiến cho rằng, giải pháp lâu dài với vốn trung - dài hạn là phải đẩy mạnh thị trường vốn. Quan điểm của ông thế nào?
Đấy là giải pháp căn cơ. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng, để đảm bảo nguồn vốn trung - dài hạn thì phải giải quyết bằng thị trường vốn. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, để thị trường vốn phát triển thì cần phải có thời gian.
Chúng ta cũng đang quyết tâm cổ phần hóa DNNN. Sản phẩm hàng hóa trên thị trường cũng là các sản phẩm hàng hóa có chất lượng. Khi DN mạnh, có chất lượng thì việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu để huy động vốn mới hấp dẫn. Hiện nay, vốn hóa trên thị trường mới chỉ đạt mức 30% GDP, theo tôi cần phải đưa mức này lên 60% trong thời gian tới.
Chính vì thị trường vốn còn yếu nên đã tạo gánh nặng cho các NHTM. Để giải quyết bài toán này cần phải có gói hỗ trợ lãi suất như tôi đã nói ở trên để làm “vốn mồi” và có giai đoạn giao thoa, giai đoạn quá độ có trách nhiệm của thị trường vốn để hỗ trợ DN. Khi DN đã tốt rồi thì DN phát hành cổ phiếu trên thị trường sẽ thành công hơn.
Xin cảm ơn ông!