Ngân hàng trợ lực cho nông hội
Những ngày gần đây, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần lượt tổ chức các đợt công tác về các tỉnh, thành phố nhằm tổng kết 5 năm triển khai thực hiện Kết luận số 61-KL/TW (Kết luận 61) của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quyết định 673/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định 673) liên quan đến vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
Ảnh minh họa |
Theo những tổng kết của Hội Nông dân Việt Nam, từ năm 2010 đến nay, việc hỗ trợ vốn cho người nông dân ở các địa phương đã có những tiến bộ vượt bậc. Ngoài việc Quỹ Hỗ trợ nông dân Trung ương cũng như quỹ tại các địa phương được ngân sách cấp bổ sung hơn 1.700 tỷ đồng để mở rộng quy mô cho vay đối với các mô hình sản xuất nông nghiệp thì sự tham gia của các TCTD như Agribank, VBSP cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.
Từ thực tế An Giang cho thấy, ngay từ khi địa phương bắt đầu triển khai các văn bản Kết luận 61 và Quyết định 673, Agribank Chi nhánh An Giang đã có chương trình phối hợp với Hội Nông dân tỉnh để triển khai các chính sách ưu đãi vay vốn và hướng dẫn bà con nông dân tiếp cận vốn vay nhằm đầu tư mở rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp.
Trong vòng 2 năm gần đây, Agribank An Giang thực hiện chương trình cho vay xây dựng nông thôn mới đã tập trung cho vay vào 17 xã điểm trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 180 tỷ đồng, hơn 4.500 hộ dân đã tiếp cận được các khoản vay. Đặc biệt, thời gian qua Agribank An Giang tập trung cho vay nhiều vào các mô hình sản xuất lúa theo hình thức liên kết doanh nghiệp – nông dân. Đến nay đã có vài trăm hộ dân trong các mô hình cánh đồng mẫu lớn của các DN được vay vốn, có hàng chục tỷ đồng được giải ngân mỗi mùa vụ để nông dân liên kết với DN đầu tư sản xuất lúa hàng hóa.
Trong khi đó, tại Cần Thơ, từ năm 2010 đến nay, Hội Nông dân địa phương đã phối hợp chặt chẽ với VBSP giúp nông dân vay vốn. Tổng dư nợ cho vay theo các chương trình phối hợp tính đến thời điểm hiện nay đã đạt trên 512 ngàn tỷ đồng với 38.600 hộ vay.
Những thống kê của Hội Nông dân Việt Nam cho thấy, trong vòng 10 năm trở lại đây, dư nợ cho vay ủy thác từ các NH liên tục tăng cả về khối lượng tín dụng và số lượng các chương trình tín dụng. Nếu như năm 2003, Hội Nông dân và VBSP mới chỉ “bắt tay” thực hiện duy nhất một chương trình tín dụng ưu đãi là cho vay hộ nghèo với hơn 3.000 tỷ đồng, thì đến nay, hội đang nhận ủy thác 16 chương trình, với tổng dư nợ trên 42.400 tỷ đồng. Mức vay bình quân của một hộ được tăng lên đáng kể, các tổ tiết kiệm và cho vay vốn tại chi hội nông dân cấp cơ sở cũng đều liên tục gia tăng số lượng thành viên, giúp nguồn vốn NH cho vay được nhiều hơn.
Ở quy mô toàn hệ thống, số liệu từ Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho thấy rằng, chỉ riêng khu vực ĐBSCL, tính đến cuối tháng 2/2015 các TCTD đã cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn khoảng trên 358.800 tỷ đồng, trong đó có hơn 165.000 tỷ đồng được các NHTM cho vay theo Nghị định 41 và cho vay vào các mô hình sản xuất nông nghiệp có liên kết với hộ nông dân.
Ngoài việc cho vay thuần túy, trong các năm từ 2010 đến nay, thông qua các Dự án Tài chính Nông thôn được WB tài trợ, các NHTM như BIDV, Agribank, Sacombank, SHB… đã chủ động tạo ra nguồn quỹ vốn an sinh xã hội rất lớn. Kết thúc giai đoạn 3 của dự án vào tháng 7/2014, từ hạn mức ban đầu là 475 tỷ đồng, Agribank đã nâng tổng số vốn lên mức 1.315 tỷ đồng, thực hiện cho vay quay vòng hơn 4.500 tỷ đồng tới hơn 82.500 khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình nông thôn. Trong khi đó, các NH như Sacombank và SHB cũng tạo ra được nguồn quỹ lần lượt là 2.300 tỷ đồng và hơn 1.000 tỷ đồng, cung ứng vốn đến gần 40.000 hộ vay, tạo ra hàng triệu việc làm mới cho lao động nông thôn khắp cả nước.
Như vậy có thể thấy, trong suốt những năm gần đây, Hội Nông dân Việt Nam đã có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía ngành NH trong việc cung ứng nguồn vốn đến khu vực nông nghiệp – nông thôn. Sự chủ động phối hợp của các TCTD chính là cơ sở quan trọng để Hội Nông dân ở các địa phương hoàn thành các mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra thể hiện bằng các văn bản pháp lý như Kết luật 61 và Quyết định 673.