Nợ công: Không lo ngại khi sử dụng thận trọng và minh bạch
Bà Victoria Kwakwa |
Trong lần nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam vừa qua, Fitch cho rằng, nợ công của Việt Nam chưa ở mức nghiêm trọng do phần lớn là vốn vay ưu đãi. Nhưng, giả sử, Việt Nam phải tăng vay từ nguồn thị trường vốn quốc tế thì liệu rủi ro sẽ thế nào, theo quan điểm của bà?
Có một thực tế là phần lớn nợ của Việt Nam hiện nay là nợ ưu đãi nên nghĩa vụ trả nợ không phải là vấn đề lớn lúc này. Tất cả các quốc gia đều phải vay mượn, kể cả các nước phát triển nhưng phải thận trọng. Vay phải tính đến khả năng trả nợ và luôn có nguồn để trả nợ mới không lo vỡ nợ.
Thứ nữa, tiền vay phải sử dụng đúng và hiệu quả mang lại lợi ích thực sự cả về kinh tế và xã hội cho đất nước. Vì thế, không nên cứ bị mắc vào những con số nợ cao hay thấp. Câu hỏi nên đặt ra là, liệu mức nợ công ấy có an toàn không xét từ nghĩa vụ trả nợ, nguồn trả nợ.
Tại cuộc họp thường niên, các tổ chức như IMF, WB vẫn đánh giá về tình hình nợ và độ an toàn của nợ công. WB hàng năm cũng làm việc với Chính phủ Việt Nam để đánh giá về tình hình tổng nợ và độ ổn định của nợ công. Báo cáo mới nhất của WB là vào tháng 4 vừa qua cho thấy, nợ của Việt Nam vẫn ở mức an toàn, không nên cho rằng nợ công của Việt Nam đang có vấn đề. Nhưng, thái độ thận trọng với nợ công là rất cần thiết nên phải theo dõi chặt chẽ biến động của nợ để kiểm soát và đảm bảo khả năng trả nợ tốt nhất.
Vậy thì đâu là vấn đề đáng quan ngại về nợ công của Việt Nam hiện nay?
Tôi nghĩ vấn đề thực sự ở đây là các khoản nợ công tiềm tàng (contingent liability) - loại nợ mà Chính phủ không vay trực tiếp mà bảo lãnh. Ví dụ, nợ do các DNNN vay và Chính phủ đứng ra bảo lãnh bởi trong trường hợp DNNN phá sản thì nghĩa vụ trả nợ ấy thuộc về Chính phủ. Nên coi khoản nợ đó là nợ tiềm tàng là vì thế.
Đối với loại nợ như vậy thì vì chúng ta vẫn chưa có được các số liệu tốt nhất nên chưa có được đánh giá đầy đủ. Đây là điều chúng tôi lo ngại. Bởi nợ này khi trở thành vấn đề sẽ có thể khiến chúng ta phải đau đớn mà không biết trước. Nên cần xác định được độ lớn của loại nợ này và đưa chúng vào để tính mức độ ổn định chung của nợ công.
Chính phủ dự báo nợ công đạt đỉnh 64,9% vào năm 2016, sau đó phấn đấu đưa tỷ lệ này xuống mức 60,2% vào năm 2020. Bà có nghĩ mục tiêu trên sẽ là hiện thực?
Cũng có nhiều nước đặt ra tỷ lệ trần nợ công an toàn trên GDP để đảm bảo sự thận trọng với nợ công. Như Việt Nam đặt ra tỷ lệ an toàn nợ công là 65%/GDP. Tôi nghĩ điều này thể hiện sự thận trọng như tôi đã nói ở trên và hiện Việt Nam chưa chạm đến mức này. Nhưng nó cũng tùy thuộc vào việc thực tế nợ công có vượt qua mức trần đặt ra nhiều không.
Ví dụ, trần là 65% thì nếu nợ công thực tế vào thời điểm nào đó có lên đến 66% thì vẫn có thể dễ dàng giảm xuống. Nhưng nếu nợ công thực tế lên tới 80% thì rõ ràng để đưa về mức 65% sẽ không hề dễ dàng.
Đánh giá của bà về hiệu quả sử dụng vốn vay WB những năm vừa qua và nhu cầu của Việt Nam những năm tới?
Sự ổn định của nợ công Việt Nam hiện nay là khả năng trả nợ theo các định nghĩa truyền thống. Tuy nhiên, cần làm sao sử dụng nợ có ý nghĩa và hiệu quả. Nếu sử dụng các nguồn vốn vay không hiệu quả và lãng phí thì ở góc độ nào đó cho thấy khả năng nợ công sẽ tăng cao mà khó trả được.
Còn với các dự án cho vay của WB, với mỗi dự án hoàn thành chúng tôi đều có một nhóm nghiên cứu độc lập đưa ra đánh giá. Và hầu hết các dự án đều được đánh giá ở mức trung bình hoặc cao hơn.
Nhưng rõ ràng, nếu chỉ sử dụng đến các nguồn lực từ ngân sách Nhà nước hay vốn vay ODA từ các tổ chức như ADB, JICA, WB và các tổ chức quốc tế khác thì sẽ không thể đáp ứng đủ tài chính cho phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam. Khi muốn đầu tư cho phát triển năng lượng, giao thông, nước sạch… thì đều cần vốn rất lớn. Rất cần một lộ trình và quyết tâm huy động được nguồn lực từ khu vực tư nhân và trên thị trường vốn quốc tế. Đây là một quá trình lâu dài và không dễ dàng nhưng chắc chắn là một phần của giải pháp trong lâu dài để đáp ứng vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Nhân nói về một dự án cụ thể đang được bàn trên diễn đàn Quốc hội là Cảng hàng không quốc tế Long Thành, bà đánh giá thế nào về sự cần thiết?
Theo tôi biết thì đây là một dự án rất lớn với tổng mức đầu tư dự kiến trên 18 tỷ USD. Có 3 vấn đề tôi có thể đặt ra với dự án này.
Thứ nhất, vậy còn sân bay Tân Sơn Nhất thì sao? Long Thành cách không xa lắm so với sân bay này và liệu Tân Sơn Nhất còn có thể mở rộng thêm mà không cần một sân bay mới không?
Thứ hai, nếu muốn triển khai một dự án lớn như vậy thì phải đặt ra câu hỏi là liệu nó có thể cạnh tranh với các sân bay khác trong khu vực để trở thành một trung tâm của khu vực (regional hub) không? Tức là nếu bỏ ra một số tiền lớn như vậy thì cũng phải đặt ra một câu hỏi là làm sao để “thoát” ra được (ý nói liệu sự đầu tư ấy có mang lại hiệu quả không - PV). Vậy thì cần phải có những nghiên cứu, so sánh với các trung tâm khu vực khác để xem có phù hợp không. Liệu có hay không và bằng cách nào để một sân bay như vậy có thể vượt qua các trung tâm khác như Sigapore hay các sân bay khác trong khu vực?.
Thứ ba, chúng ta có tìm các cách thức để kêu gọi tư nhân vào đầu tư hay không?
Đấy là một số vấn đề cần làm rõ. Tất nhiên là tôi chưa có điều kiện tìm hiểu và cập nhật thông tin để có nhận định chính xác hơn đối với các vấn đề liên quan, ví dụ như nguồn tài chính cho dự án này. Nhưng tôi nghĩ rằng, khi chúng ta đã nghiên cứu kỹ thấy khả thi và nếu có khu vực đầu tư tư nhân tham gia vào thì dự án đó cũng ổn.
Xin cảm ơn bà!
Đỗ Lê thực hiện