Phát triển công nghiệp: Chỉ nên nhìn xa đến 10 năm
Phát triển công nghiệp Việt Nam: Thách thức lớn, cần quyết tâm cao | |
Phát triển công nghiệp tập trung vào 3 nhóm ngành ưu tiên |
Thất bại vì mang kính viễn vọng
Điển hình nhất, phải kể đến là hai Quyết định 879 và 880 về chiến lược phát triển công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cách đây hai năm, nay đã không còn phù hợp, còn nền công nghiệp của Việt Nam đang “ở dưới đáy” sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa.
Trước thực trạng đó, Ban Kinh tế Trung ương đang gấp rút hoàn thành đề án về chính sách công nghiệp quốc gia hoàn toàn mới, như Bộ Chính trị yêu cầu.
Chiến lược công nghiệp nên nhìn từ tiềm năng phát triển của nông nghiệp |
Ông Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho rằng, phải hiểu rõ những hạn chế, khó khăn, thách thức để trong thời gian tới đổi mới chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam theo nguyên tắc thị trường, nhằm mục đích phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tăng tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; tập trung vào những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.
Bên cạnh việc nghiên cứu, ban hành chính sách đúng, cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề triển khai thực hiện để đưa chính sách công nghiệp đi vào thực tiễn và phát huy hiệu quả.
Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản đã thẳng thắn nói rằng, Việt Nam phải thoát khỏi việc thiết kế những bản đề án, chiến lược mà thiếu thông tin cốt lõi, quá nhiều thông tin bổ sung, phức tạp hóa một cách không cần thiết và lặp lại.
Ông cho rằng cách làm chiến lược công nghiệp của Việt Nam hiện cũng vẫn giống như cách làm từ năm 1993, khi ông cũng được mời làm cố vấn cho Chính phủ Việt Nam về vấn đề này.
Theo ông, phạm vi thời gian cho chính sách công nghiệp, từ 5-10 năm là thích hợp, và như Việt Nam xây dựng chiến lược cho 20-30 năm là quá dài. Tốt nhất, nên sửa đổi một chiến lược công nghiệp với thời hạn phù hợp trên cơ sở các phân tích nhiều tầng, rà soát kết quả trong quá khứ và điều chỉnh các hành động trong tương lai.
Đại diện World Bank tại Việt Nam, ông Sebastian Eckardt cho rằng, cần có chính sách thật sự đúng để Việt Nam đạt được mục tiêu của mình, chứ chiến lược phát triển công nghiệp của Việt Nam từ trước đến nay đều theo hình thái của “quả mít” đâu đâu cũng được xác định là mũi nhọn nên không có sự phát triển bứt phá.
Thiếu mục tiêu cụ thể
Thiếu một tầm nhìn rõ ràng có nghĩa là thiếu mục tiêu phát triển cụ thể, và điều đó lý giải vì sao những chính sách về chiến lược phát triển công nghiệp trước đây đều thất bại. Ông Ohno đưa ra một số ví dụ, như Malaysia xác định tầm nhìn rất cụ thể: đến năm 2020 là đạt thu nhập cao, mang tính toàn diện và bền vững.
Thái Lan, dưới thời Thủ tướng Thaksin, đã có một tầm nhìn “trở thành một Detroit của châu Á”. Ethiopia muốn “trở thành một nhà lãnh đạo trong sản xuất ánh sáng ở châu Phi vào năm 2025”. “Trong văn bản chiến lược phát triển công nghiệp của Việt Nam, chúng tôi không tìm thấy bất kỳ tầm nhìn nào ngắn gọn và dễ hiểu giống như vậy,” ông Ohno nói.
Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình đã phải thẳng thắn kêu gọi các nhà khoa học cần “nói đúng, nói trúng để làm thật”, chứ không phải “nói hay”. Điều đó cũng đủ thấy sự cấp thiết và mong muốn có một chiến lược công nghiệp đúng đắn như thế nào.
Ông Dương Đình Giám, Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, người góp phần viết nội dung của hai Quyết định 879 và 880 thừa nhận rằng, hai quyết định đó là một sự ôm đồm các mục tiêu về phát triển công nghiệp. Để rồi ngay sau khi ban hành, chiến lược đó đã không được thực hiện.
Tham vọng quá lớn trong những chiến lược được lập ra trước đây cũng được Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài thừa nhận là không thể thực hiện được. “Chúng ta có quá nhiều định hướng và đặt ra mục tiêu quá cao,” ông nói. Một ví dụ điển hình được ông Hoài đưa ra là trong khi Việt Nam chưa có DN tự sản xuất được thép dùng cho công nghiệp chế tạo, thì lại đặt mục tiêu phải chế tạo được tua-bin máy.
TS. Vũ Thành Tự Anh từ Chương trình Fulbright chỉ ra rằng các chính sách hiện tại đang hướng tới thu hút ngành công nghệ cao, nhưng trong giỏ hàng xuất khẩu thì chỉ có 20% là xuất khẩu công nghệ cao. Ông lưu ý phải phân biệt công nghệ cao và giá trị gia tăng cao. Ông Giám cho rằng việc đi vào các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao có thể còn khó khăn đối với Việt Nam, do hạn chế cả về tài chính và nhân lực, nhưng giá trị gia tăng cao là điều Việt Nam có thể đạt được.
Ông Giám khuyến nghị công nghiệp Việt Nam nên phát triển với cơ cấu hợp lý theo ngành và lãnh thổ, có khả năng cạnh tranh để phát triển trong hội nhập, có trình độ công nghệ tiên tiến ở một số chuyên ngành, lĩnh vực và có khả năng đáp ứng về cơ bản các yêu cầu của nền kinh tế về tiêu dùng và xuất khẩu. Chiến lược công nghiệp nên nhìn từ tiềm năng phát triển của nông nghiệp Việt Nam, phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp.
Với cách tiếp cận này, các ngành, lĩnh vực được lựa chọn ưu tiên là: Nhóm ngành chế biến - đây là nhóm ngành làm gia tăng giá trị của các sản phẩm nông nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trong nước và tăng hiệu quả xuất khẩu; Nhóm ngành hỗ trợ: gồm hóa chất, công nghệ sinh học và các ngành khác, bao gồm các ngành công nghiệp nền tảng, phục vụ cho sự phát triển của cả nền kinh tế, như điện lực, khai khoáng; Nhóm ngành chế tạo, và cơ khí là ngành cần được ưu tiên phát triển, vì nó trực tiếp góp phần tăng hiệu quả của sản xuất nông nghiệp.