Phát triển công nghiệp Việt Nam: Thách thức lớn, cần quyết tâm cao
Đề án “Định hướng chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2035” đang được tham vấn đại diện các bộ, ban, ngành và địa phương, các DN và các Hiệp hội ngành nghề, các đơn vị nghiên cứu khoa học và các chuyên gia...
Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá cao sáng kiến và nỗ lực của Ban Kinh tế Trung ương, nhấn mạnh đây là một hoạt động hết sức quan trọng và có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, chuẩn bị cho giai đoạn 5 năm tiếp theo 2016 - 2020.
Ngành công nghiệp Việt Nam không có nhiều thay đổi dù tích cực đưa ra nhiều giải pháp |
Chính sách nhiều nhưng không hiệu quả
30 năm đổi mới theo hướng CNH-HĐH, đã có được những kết quả khả quan. Nhưng đến nay chúng ta chỉ là đang phấn đấu trở thành nước công nghiệp với ngành công nghiệp vẫn yếu kém, gia công là chính... dù đã có không ít chính sách.
Nhìn lại quá trình phấn đấu trở thành nước công nghiệp hiện đại, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải lưu ý tới một vấn đề nổi lên là giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp vẫn tăng trưởng ở mức thấp. Nhiều ngành công nghiệp như công nghiệp hỗ trợ (CNHT) lại chưa được phát triển phù hợp với phát triển công nghiệp trong giai đoạn vừa qua (ước chỉ đạt bình quân 36% so với mức trung bình 60-70% trong khu vực.
Ông cũng chỉ ra việc phân bố không gian phát triển công nghiệp trong cả nước và ngay trong nội bộ các vùng kinh tế vẫn còn nhiều bất cập, đầu tư và kêu gọi đầu tư vẫn còn thiếu đồng bộ, gắn kết. Trình độ lao động công nghiệp vẫn ở mức thấp. Các chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ có nhiều nhưng không hiệu quả.
“Để đưa ra được chính sách đúng cần phải nhận dạng đúng những cơ hội và thách thức để đưa ra các quyết sách phù hợp và khôn ngoan nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035”, Phó thủ tướng chỉ đạo.
TS. Lưu Bích Hồ - một chuyên gia uy tín hàng đầu về chiến lược phát triển hiện nay rất tâm đắc với những đánh giá của Phó thủ tướng. Ông bổ sung, chính sự phân tán và phân bổ bất hợp lý cùng với chiến lược phát triển “cái gì cũng muốn làm” khiến chúng ta không làm được gì cho đến nơi, đến chốn cả.
TS. Dương Đình Giám - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp, Bộ Công Thương chỉ ra rằng, Việt Nam cũng đã xây dựng các cụm liên kết từ nhiều năm nay nhưng lỏng lẻo từ quy hoạch đến thu hút đầu tư và phân bổ nguồn lực. Thế nên mới có tình trạng tỉnh này có nhà máy thép, tỉnh kia cũng phải có, tỉnh này có xi măng, tỉnh kia cũng đầu tư, không chịu kém.
PGS-TS. Phạm Hồng Chương – Phó hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, góp ý rất chi tiết cho đề án và kết luận khó khăn lớn nhất hiện nay trong công nghiệp hóa là năng lực của DN trong nước vì vậy phải hỗ trợ DN phát triển nâng cao năng lực cạnh tranh.
Không thể “cái gì cũng muốn”
Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đặc biệt lưu ý đến tầm quan trọng của vấn đề quy hoạch và liên kết vùng. Ông nhấn mạnh, chính sách công nghiệp chính là nhằm mục tiêu phát triển công nghiệp theo định hướng chiến lược và quy hoạch, khắc phục hạn chế hiện nay. Vậy nó phải gồm 6 loại chính sách, đó là chính sách phát triển về đội ngũ lao động ngành công nghiệp; Phát triển hạ tầng công nghiệp theo phương châm nguồn lực trong nước là quyết định, ngoài nước là quan trọng; Phát triển DNNVV, nhắm tới xây dựng năng lực cho kinh tế tư nhân với nguồn nhân lực và DN có tính cạnh tranh cao; Phát triển CNHT; Lựa chọn FDI vào các lĩnh vực hướng về chất lượng, phù hợp với khả năng đáp ứng tài nguyên và nhu cầu trong nước; Phát triển khoa học và công nghệ và tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ.
“Việt Nam có ra khỏi được bẫy thu nhập trung bình hay không, được cho chính là nhờ khả năng công nghệ nội sinh, khả năng sáng tạo và trình độ khoa học công nghệ của ngành công nghiệp Việt Nam”, Phó thủ tướng bổ sung thêm.
Một lần nữa, TS. Hồ khẳng định sự cần thiết của Đề án và nhấn mạnh: “Đã đến lúc phải lựa chọn – và chỉ chọn ít thôi - những ngành công nghiệp mũi nhọn mà Việt Nam thực sự có thế mạnh để tạo mũi nhọn thực sự”. Và ông chọn công nghiệp chế tạo công nghệ cao (phục vụ cho cả CNHT và nông nghiệp), công nghệ thông tin và những ngành công nghiệp mới về vật liệu, năng lượng, sinh học là những ngành công nghiệp cần tập trung. Đây cũng là cơ sở để thúc đẩy ngành nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ du lịch tăng trưởng mạnh lên.
Còn theo ông Giám, nếu không có cơ chế chia sẻ lợi ích ở quy mô vùng, thậm chí là toàn quốc, thì khó thuyết phục được các địa phương bị thiệt thòi (phải chịu nhiều những tác động xấu từ sự phát triển như ô nhiễm môi trường, quá tải hệ thống hạ tầng...) tham gia vào các quan hệ liên kết công nghiệp.
TS.Võ Đại Lược và nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan cùng một quan điểm rằng, nói nước công nghiệp hiện đại hiện nay đã là quá lạc hậu chứ chưa nói đến 10, 15 năm sau. Các ông đề nghị nên xác định mục tiêu là nước hiện đại.
Ông Nguyễn Xuân Thành - Giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tăng trưởng về lượng xét theo giá trị sản xuất công nghiệp của Việt Nam là rất ấn tượng trong ba thập kỷ qua. Một số cụm, ngành công nghiệp đã hình thành, trỗi dậy và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nhưng về chất, tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệp lại ngày một suy giảm, năng lực công nghệ nội địa thấp, hợp tác trong cụm, ngành hạn chế và sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu mới chỉ ở công đoạn khai thác lợi thế về chi phí lao động và tài nguyên thiên nhiên. Để thúc đẩy phát triển cụm, ngành, cần hình thành một diễn đàn giúp khuyến khích sự hợp tác giữa khu vực tư nhân và FDI với các hiệp hội thương mại, cơ quan Chính phủ, trường đại học, viện nghiên cứu. Trong một cụm, ngành, việc làm quy hoạch nên thuộc về một ủy ban bao gồm hiệp hội DN, trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan quản lý Nhà nước Trung ương và chính quyền các địa phương nơi DN trong cụm, ngành có sự tập trung cao. Còn để thúc đẩy việc tham gia chủ động vào chuỗi giá trị toàn cầu, chính sách phát triển công nghiệp cần ưu tiên đầu tư trọng điểm vào các khu CNHT của ngành, với vốn ngân sách chỉ dành cho nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng sử dụng chung trong khu. Đối với chiến lược phát triển CNHT để tham gia vào chuỗi giá trị, việc thực hiện chính sách ưu đãi dành cho CNHT chung chung cũng không hiệu quả. Thay vào đó, trong mỗi cụm, ngành, cần xác định cụ thể nhóm các hoạt động cung ứng phụ trợ cấp 2 và 3 rồi tập trung chính sách ưu đãi Nhà nước vào các DN trong nước tham gia các hoạt động này. TS. Đỗ Hữu Hào - Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp môi trường Phát triển công nghiệp thường kèm theo nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường. Nếu không quan tâm phòng, chống thì hiểm họa sẽ khôn lường. Sau gần 30 năm đổi mới, công nghiệp Việt Nam có tốc độ tăng trưởng trung bình trên 10%/năm, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công nghiệp cũng là một trong những ngành tạo ra nhiều chất thải nhất, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái. Do đó, phát triển công nghiệp dựa trên cơ sở phát triển bền vững, chuyển dần sang phát triển xanh để bảo vệ môi trường, môi sinh và cân bằng sinh thái là rất cần thiết. Trong đó, phát triển công nghiệp môi trường để cung cấp các công nghệ, thiết bị, dịch vụ môi trường nhằm xử lý, kiểm soát ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo đảm cho bảo vệ môi trường trong quá trình CNH đất nước là điều cần làm. Đơn cử về chất thải nguy hại, theo một khảo sát của Tổng cục môi trường vào năm 2009 đối với 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì tổng lượng chất thải nguy hại phát sinh khoảng 984.000 tấn/năm. Trong khi đó, năng lực xử lý của các cơ sở đã được cấp phép chỉ đáp ứng được khoảng 14-15% nhu cầu. Đây vừa là thách thức lớn với các nhà quản lý môi trường, song lại là thị trường lớn cho các nhà đầu tư. Như vậy, nhìn rộng ra các ngành khác, nếu ngành công nghiệp môi trường phát triển sẽ không chỉ hỗ trợ bảo vệ môi trường cho quá trình CNH - HĐH, mà tự nó có thể hình thành các thị trường tiềm năng, qua đó đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. |